NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN II
QUY-Y TAM-BẢO (TISARAṆA)
Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita)
THỌ PHÉP QUY-Y TAM-BẢO THỜI XƯA VÀ THỜI NAY
THỌ PHÉP QUY-Y TAM-BẢO THỜI XƯA
Thời xưa, số người đi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được phiền-não, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.
Ngay khi sát-na Thánh-đạo-tâm phát sinh, có đối- tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, diệt tận được phiền-não, bậc Thánh-nhân ấy đã thành tựu thọ phép quy-y Tam- bảo theo pháp siêu-tam-giới ở trong tâm.
* Đối với bậc Thánh-nhân để được chính thức công nhận là người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ, một lần nữa, trước sự hiện diện của Đức-Phật, hoặc bậc Thánh thanh-văn của Đức-Phật, bậc Thánh-nhân ấy thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời nói.
* Nếu người ấy là nam Thánh-nhân, thì xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời rằng:
- Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, bhikkhusaṃghañca, upāsakaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp-bảo, xin quy- y nơi chư Đại-đức tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nam đã quy-y Tam-bảo kể từ nay cho đến trọn đời.
* Nếu người ấy là nữ Thánh-nhân, thì xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời rằng:
- Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, bhikkhusaṃghañca, upāsikaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y nơi Đức-Thế-Tôn, xin quy-y nơi Đức-Pháp-bảo, xin quy- y nơi chư Đại-đức tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nữ đã quy-y Tam-bảo, kể từ nay cho đến trọn đời.
* Đối với các hàng phàm-nhân, muốn chính thức trở thành một người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, người đệ-tử ấy có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có đại-thiện-tâm tôn kính Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức- Tăng cao thượng, có trí-tuệ sáng suốt, học hỏi, hiểu biết về giáo-pháp của Đức-Phật, nhất là hiểu rõ 9 Ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, trước sự hiện diện của Đức-Phật hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật chứng minh, người ấy thành kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo bằng lời nói.
* Nếu người đệ-tử ấy là người nam, thì tự nguyện, xin thọ phép quy-y Tam-bảo rằng:
- Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsakaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y Đức-Thế-Tôn, xin quy-y Đức-Pháp-bảo, xin quy-y chư Đại-đức tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn, công nhận con là người cận- sự-nam đã quy-y Tam-bảo, kể từ nay cho đến trọn đời.
* Nếu người đệ-tử ấy là người nữ thì tự nguyện, xin thọ phép quy-y Tam-bảo rằng:
- Esāhaṃ Bhante Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsikaṃ maṃ Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính xin quy-y Đức-Thế-Tôn, xin quy-y Đức-Pháp-bảo, xin quy-y chư Đại-đức tỳ-khưu Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn, công nhận con là người cận- sự-nữ đã quy-y Tam-bảo, kể từ nay cho đến trọn đời.
* Nếu không có Đức-Phật thì có bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật chứng minh.
Như trường-hợp ông bà-la-môn Kāraṇapāḷi, kính mời ông bà-la-môn Piṅgiyāni chứng minh nghe lời chân thật của ông rằng:
- Esāhaṃ Bho Piṅgiyāni taṃ Bhagavantaṃ Gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṃghañca, upāsakam maṃ bhavaṃ Piṅgiyāni dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ. (1)
- Kính thưa ông Piṅgiyāni, xin ông chứng minh lời chân thật của tôi rằng: “Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Đức-Thế-Tôn Gotama, xin quy-y Đức-Pháp- bảo, xin quy-y chư Đại-đức tỳ-khưu Tăng-bảo.”
Kính xin ông Piṅgiyāni công nhận tôi là người cận- sự-nam đã quy-y Tam-bảo cao thượng, kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Như vậy, ông bà-la-môn Kāraṇapāḷi đã thành tựu phép quy-y Tam-bảo, đã chính thức trở thành người cận- sự-nam trong hàng tứ chúng của Đức-Phật Gotama trước sự hiện diện chứng minh công nhận của Ông Bà- la-môn Piṅgiyāni.
* Thời xưa, trong thời-kỳ Đức-Phật xuất hiện trên thế gian, tiếng Māgadha được xem như tiếng phổ thông mà Đức-Phật sử dụng để thuyết pháp tế độ chúng-sinh gọi là tiếng Pāḷi.
Sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, các hàng thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật vẫn còn giữ nguyên truyền thống xưa.
Người nào có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có đại- thiện-tâm tôn kính Đức-Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng, có ý nguyện muốn trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ, người ấy có trí-tuệ sáng suốt, hiểu biết về giáo-pháp của Đức-Phật, nhất là hiểu biết rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp- bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, trước sự hiện diện của bậc Thánh thanh-văn là bậc Đại-Trưởng-lão, kính thỉnh Ngài chứng minh.
Người ấy thành kính tự nguyện nói lên lời chân thật xin thọ phép quy-y Tam-bảo, rồi kính xin Ngài chứng minh và công nhận người ấy là người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo, kể từ đó cho đến trọn đời.
Nếu không có bậc Đại-Trưởng-lão thì bậc Trưởng- lão, hoặc vị tỳ-khưu, hoặc vị sa-di, hoặc thậm chí người cận-sự-nam, hoặc cận-sự-nữ là bậc thiện-trí hiểu biết lễ thọ phép quy-y Tam-bảo chứng minh.
Người ấy thành kính tự nguyện nói lên lời chân thật xin thọ phép quy-y Tam-bảo, rồi kính xin Ngài chứng minh và công nhận người ấy là người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo, kể từ đó cho đến trọn đời.
THỌ PHÉP QUY-Y TAM-BẢO THỜI NAY
Thời nay, Phật-giáo đã được truyền bá đến nhiều nước trên thế giới, mà mỗi nước có tiếng nói riêng của nước mình.
Mặc dù như vậy, các nước theo truyền thống Phật- giáo Nguyên-thủy Theravāda vẫn căn cứ vào Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi làm căn bản chính. Do đó, tiếng Pāḷi trở thành một ngôn ngữ chung cho tất cả các hàng thanh-văn đệ-tử để học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, còn tiếng nói của xứ sở mình là ngôn ngữ riêng dùng để giảng giải ý nghĩa ngôn ngữ Pāḷi ra ngôn ngữ của mình, cho mọi người ở trong nước hiểu rõ giáo-pháp của Đức- Phật Gotama.
Cho nên, các nước theo truyền thống Phật-giáo Nguyên-thủy Theravāda vẫn tôn trọng tiếng Pāḷi được ghi trong Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi là lời giáo huấn của Đức-Phật Gotama.
* Đối với bậc xuất gia sa-di, tỳ-khưu trong các nước Phật-giáo Nguyên-thuỷ Theravāda, có bổn phận học pháp-học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, để duy trì Phật-giáo cho được tồn tại trên thế gian.
Các nghi lễ thọ sa-di, thọ tỳ-khưu, hành Tăng-sự tụng Kammavācā, v.v... chắc chắn chỉ sử dụng tiếng Pāḷi đúng theo Tạng-luật Pāḷi mà thôi, không thể sử dụng tiếng xứ sở của mình.
Cho nên, các nước theo truyền thống Phật-giáo Nguyên-thủy Theravāda, những nghi lễ chính Phật-giáo, đều sử dụng tiếng Pāḷi hầu như giống hệt nhau.
* Đối với các hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong các nghi thức xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hoặc bát-giới, hoặc cửu-giới, ... nghi thức tụng kinh lễ bái Tam-bảo, tụng kinh Parittapāḷi, ... bằng tiếng Pāḷi là chính, có nơi đọc tiếng Pāḷi và dịch nghĩa bằng tiếng của xứ sở mình, để cho mọi người trong nước hiểu biết rõ ý nghĩa Pāḷi.
THỌ PHÉP QUY-Y TAM-BẢO PHỔ THÔNG
Thời nay, các nước theo truyền thống Phật-giáo Nguyên-thủy Theravāda như Tích-lan, Miến-điện Thái- lan, ... Phật-giáo Nguyên-thủy tại Việt-Nam ... thường áp dụng thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông như sau:
Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông này được dựa theo cách xuất gia thọ sa-di mà Đức-Phật đã ban hành đến chư tỳ-khưu rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai cho phép xuất gia thọ sa-di bằng cách thọ phép quy-y Tam-bảo.
- Này chư tỳ-khưu! Như vậy, gọi là xuất gia thọ sa-di.
Vị Thầy tế-độ (upajjhāya) hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo bằng tiếng Pāḷi trước, giới-tử thọ phép quy-y Tam-bảo lặp lại từng chữ từng câu đúng theo vị Thầy tế- độ. Khi giới-tử lặp lại câu:
“Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo: “Itipiso Bhagavā Arahaṃ, ... Bhagavā.”
“Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo: “Svākkhāto Bhagavatā dhammo, ... paccattaṃ veditabbo viññūhi.”
“Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi” với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo: “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, ... Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.” cho đến câu cuối:
“Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.”
Khi giới tử đã lặp lại đúng từng chữ từng câu Pāḷi theo vị Thầy tế-độ, đến câu cuối chấm dứt, đồng thời ngay khi ấy giới tử trở thành samāṇera (vị sa-di) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, có đầy đủ 10 giới sa- di, 10 pháp-hoại, 10 pháp hành-phạt, 75 giới-hành, 14 pháp-hành cùng một lúc khi trở thành vị sa-di không trước không sau.
Nhưng nếu trường-hợp vị Thầy tế-độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo mà giới-tử lặp lại từng chữ từng câu Pāḷi không đúng thì giới-tử không thành-tựu phép quy-y Tam-bảo, cũng không trở thành samāṇera (vị sa- di) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, bởi vì nghi thức thọ phép quy-y Tam-bảo trong lễ xuất gia trở thành samāṇera (vị sa-di) với điều kiện ubhato suddhi nghĩa là vị Thầy tế-độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo từng chữ từng câu Pāḷi đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana của văn phạm Pāḷi và đúng theo 10 byañjanabuddhi và giới-tử cũng phải lặp lại từng chữ, từng câu Pāḷi đúng theo vị Thầy tế-độ.
* Thời nay, lễ thọ phép quy-y Tam-bảo này được áp dụng cho các hàng tại gia cư-sĩ là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong các nước theo truyền thống Phật-giáo Theravāda. Bởi vậy, cho nên thọ phép quy-y Tam-bảo này gọi là thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông của thời nay.
HƯỚNG DẪN THỌ PHÉP QUY-Y TAM-BẢO PHỔ THÔNG
Thời nay, sở dĩ Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo như vậy, là vì những người đệ-tử không rành tiếng Pāḷi, vả lại, nếu để mỗi người nói bằng tiếng xứ sở của mình, thì mỗi người nói một cách khác nhau, không thể đồng thanh từng chữ, từng câu với nhau, làm cho nghi lễ thọ phép quy-y Tam-bảo kém phần trang nghiêm.
Do đó, Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo từng chữ, từng câu, để cho các người đệ- tử đồng thanh lặp lại đúng từng chữ, từng câu y theo Ngài Đại-Trưởng-lão.
Cho nên, nghi lễ thọ phép quy-y Tam-bảo tăng thêm phần tôn nghiêm long trọng.
Còn điều quan trọng nữa, người hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo là vị Thầy của mình, vị Thầy ấy, có vai trò rất quan trọng làm phận sự dạy dỗ, chỉ dạy các người đệ-tử hiểu rõ ý nghĩa 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, bởi vì, ân-đức Tam-bảo này là đối-tượng của đại-thiện-tâm làm phận sự thọ phép quy-y Tam-bảo, giúp hỗ trợ cho người đệ-tử thành tựu được phép quy-y Tam-bảo.
Vị Thầy còn có bổn phận dạy dỗ các đệ-tử những pháp quan trọng khác như pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, v.v...
Cho nên, người đệ-tử phải có phận sự kính trọng và biết ơn Thầy.
-oo0oo-
(1) Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, Kinh Karaṇapāḷisutta.
Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.