Tích người không làm tội nữa

Tích người không làm tội nữa

    PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY THERA VĀDA
    -----

    CHÚ GIẢI BỔN SANH KINH

    (ATTHAKATHĀJĀTAKA)

    Soạn giả

    Trưởng Lão Hòa Thượng Hộ Tông

    (vaṅsarakkhita Mahāthera)

    Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa (3 lần).

     

    TÍCH NGƯỜI KHÔNG LÀM TỘI NỮA

    Mitto mitassa pāniyan. Adinnan paribhunjīsan. Tena pacchā vijigucchin. Tan pāpan pakatan mayā.

    Trong thời quá khứ có hoàng đế Brahmadatta ở thủ đô Bārānasī, thưở đó có 5 đức Độc Giác (Paccekabuddha) trải đi khất thực trong kinh thành đó, đến hoàng môn đức vua xem thấy, bèn phát tâm trong sạch, sốt sắng, lúc bấy giờ khiến người đến thỉnh vào thọ thực trong hoàng điện. Trong giờ khoản đãi, hoàng đế ngự một bên, phán hỏi rằng: “Bạch quí Ngài, sự xuất gia trong lúc ấu niên như quí Ngài thật là hiếm có. Không rõ quí Ngài thấy tội của nhục dục thế nào, hoặc có điều gì làm cho quí Ngài phải xuất gia.”

    Đức Độc Giác thứ nhứt tâu:

    Mitto mittassa pāniyan. Adinnan paribhūjisan. Tena pacchā vijīgucchin. Tan pāpan pakatan mayā. Mā puna akaran pāpan. Tasmā pabbajito ahan.

    Nghĩa: Đã uống nước của bạn, mà người chưa cho; vì thế Ātmābhāba ghê tởm các tội đã làm rằng: ta chẳng nên phạm tội đó nữa đâu. Cớ ấy Ātmābhāba mới xuất gia.

    Đức Độc Giác thứ hai tâu:

    Paradāranca disvanā. Chando me upapajjatha. Tena pacchā vijigucchin. Tan pāpan pakatan mayā. Mā puna akaran pāpan. Tasmā pabbajito ahan.

    Nghĩa: Sự thỏa chí phát sanh đến Ātmābhāba vì được thất vợ người, sau rồi Ātmābhāba gớm điều tội lỗi đã làm đó, nghĩ rằng: ta chẳng nên làm tội ấy nữa đâu, vì thế Ātmābhāba mới xuất gia.

    Đức Độc Giác thứ ba tâu:

    Pitaran me mahārāja. Corā aganhu kākane. Tesāhan pucchito jānan. Aññathā nan viyākarin. Tena pacchā vijigucchin. Tan pāpan pakatan mayā. Mā puna akaran pāpan. Tasmā pabbajito ahan.

    Nghĩa: Tâu đại vương! Kẻ cướp bắt cha Ātmābhāba giam trong rừng, Ātmābhāba bị người thẩm vấn, biết chắc nhưng nói lời khác, vì vậy sau rồi Ātmābhāba ghê cái tội đã làm đó, nên nghĩ rằng ta đừng làm thêm tội nữa, do đó Ātmābhāba mới xuất gia.

    Đức Độc Giác thứ tư tâu rằng:

    Panātipatāmakarun. Satomayāge upatthite. Tesāhan samanuññāsin. Tena pacchā vijigucchin. Tan pāpan pakatan mayā. Mā puna akaran pāpan. Tasmā pabbajito ahan.

    Nghĩa: Khi hy sinh (súc vật dùng để cúng tế) bắt đầu làm, loài người đã sát sanh, Ātmābhāba đã chuẩn hành đến họ, vì vậy về sau Ātmābhāba không thích cái tội đã làm đó, nghĩ rằng: ta đừng gây tội nữa, vì thế Ātmābhāba mới xuất gia.

    Đức Độc Giác thứ năm tâu rằng:

    Surāmerayadhukā. Ye janā pathamāsu no. Bahunnan te anatthāya. Majjappānamakambayun. Tesāhan samanuññāsin. Tena pacchā vijigucchin. Tan pāpan pakatan mayā. Mā puna akaran pāpan. Tasmā pabbajito ahan.

    Nghĩa: Những người trong nhà Ātmābhāba, từ trước họ thấy rằng các chất say, toàn là nước thơm tho khoái lạc, nên uống đến say túy lúy rồi phải bị hại.

    Ātmābhāba đã nhận cho họ, về sau Ātmābhāba gớm cái tội đã làm, nghĩ rằng ta chẳng nên gây tội đó nữa, vì thế Ātmābhāba mới xuất gia.

    Đức vua nghe nói phát tâm hoan hỷ và sốt sắng cúng dường nhiều y, bát và thuốc men. Chư Độc Giác liền từ giã đức vua trở về núi Nandamūlaka.

    Bắt đầu từ đó đức vua phát tâm chán nản không vui lòng trong đế vị, ngày nọ vào ngự trong cung cấm, ngài tham thiền quán tưởng, đắc định rồi khiển trách nhục dục rằng:

    Dhiratthusu bahukāme. Duggandhe bahukantake. Yo cāhan peṭisevanto. Nālabhin tādisan sukhan

    Nghĩa: Đáng sợ thay khi ta còn thọ dụng các nhục dục có mùi xấu xa, có nhiều nghịch pháp như thứ gai nhọn, vô dụng rồi, cũng không được hưởng điều hạnh phúc chi như thế.

    Trong hồi đó đức hoàng hậu vừa ngự vào, được nghe như vậy bèn tâu rằng:

    Mahassādā sukhā kāmā. Natthi kāmā paran sukhan. Ye kāme patisevanti. Saggante upapajjare.

    Nghĩa: Các nhục dục có lắm điều lạc thú và hạnh phúc, ngoài nhục dục không có thú vui, người thọ dụng nhục dục sẽ lên cõi trời.

    Đức vua vội đáp: Hãy tiêu diệt đi, người phụ nữ xấu xa, ngươi nói cái chi? Các thú vui trong nhục dục có trong nơi nào được, vì sự sung sướng ấy sẽ biến thành khổ não, rồi ngài đọc kệ ngôn chê trách nhục dục tiếp theo như vầy:

    Appassādā dukkhā kāmā. Natthi kāmā paran dukkhan. Ye kāme patisevanti. Nirayante upapajjare.

    Nghĩa: Các nhục dục ít có sự khoái lạc, có nhiều điều vất vả; sự khổ ngoài nhục dục không có, kẻ nào thọ dụng nhục dục kẻ đó sẽ sa địa ngục.

    Asi yathā sunisito. Nettin sova subāyiko. Sattivā urasi khittā. Kāmā dukkhatarā tato.

    Nghĩa: Ví như dao không trắc ẩn, tức là cây kiếm hoặc lao mà họ mài cho bén, trét bằng chất độc rồi chạm hoặc đâm vào ngực, các nhục dục cũng đem rất nhiều sự khổ hơn đó nữa.

    Āngrānanva jalitan. Kāsun sādhikaporisan. Phālanva divasantattan. Kāmā dukkhatara tato.

    Nghĩa: Các thống khổ phát sanh đó, như hầm than đỏ cháy hỏa hào, rất sâu hơn khuôn khổ người nam, hoặc miếng sắt mà người đốt cho nóng trọn ngày, các nhục dục hằng đem sự khổ đến càng nhiều hơn đó nữa.

    Visan yathā halāhalan. Telan pakkutthitan yathā. Tambalohan vilīnanva. Kāmā dukkhatara tato.

    Nghĩa: Ví như (sự khổ phát sanh do) nọc độc dữ dội hoặc như dầu sôi hay nước đồng sôi, các nhục dục đem đến nhiều khổ não hơn các vật đó nữa.

    Khi đức vua đã phán như thế rồi, ngài bèn cho hội chúng quần thần truyền ngôi cho hoàng tử rồi xuất gia; sau khi ngũ uẩn tan rã, ngài thọ sanh trong cõi Phạm Thiên.

    ‒ Dứt ‒

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.