Tìm hiểu Nghiệp và Quả Của Nghiệp

Tìm hiểu Nghiệp và Quả Của Nghiệp

    NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀSANA)

    QUYỂN III

    PHÁP-HÀNH GIỚI (SĪLĀCĀRA)

    Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita)

     

    NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA NGHIỆP

    Các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp.

    Nếu hàng thanh-văn đệ-tử nào hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp(1) thì làm nhân-duyên hỗ trợ cho hàng thanh-văn đệ-tử ấy biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn.

    Đức-Phật dạy và nghiệp và quả của nghiệp rằng:

    “Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma-bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyānaṃ vā pāpakaṃ vā, tassa dāyādo bhavissāmi.” (2)

    Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào: “thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp”, ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.

    Nên tìm hiểu nghiệp và quả của nghiệp, bởi vì tất cả mọi chúng-sinh dù lớn dù nhỏ cũng đều tuỳ thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của mình.

    Đức-Phật dạy về nghiệp (kamma) rằng:

    Cetanā’haṃ bhikkhave, kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā.(3)

    - Này chư tỳ-khưu! Sau khi đã có tác-ý rồi, mới tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Vì vậy, Như-lai dạy rằng: Tác-ý gọi là nghiệp.

    Tác-ý (cetanā) đó là tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) là 1 trong 52 tâm-sở, đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.

    Vậy, tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với các tâm nào gọi là nghiệp và đồng sinh với các tâm nào không gọi là nghiệp?

    * Tác-ý gọi là nghiệp

    Nếu tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) và đồng sinh với 21 hoặc 37 thiện-tâm thì tác-ý tâm-sở ấy gọi là nghiệp.

    * Tác-ý không gọi là nghiệp

    Nếu khi tác-ý tâm-sở nào đồng sinh với 36 hoặc 52(1) quả-tâm và 20 duy-tác-tâm (2) thì tác-ý tâm-sở ấy không gọi là nghiệp.

    Nghiệp (Kamma) có 2 loại:

    - Bất-thiện-nghiệp (akusalakamma).

    - Thiện-nghiệp (kusalakamma).

    * Nếu tác-ý tâm-sở nào đồng sinh với 12 bất-thiện- tâm (ác-tâm) thì tác-ý tâm-sở ấy gọi là bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp).

    * Nếu tác-ý tâm-sở nào đồng sinh với 21 hoặc 37 thiện-tâm thì tác-ý tâm-sở ấy gọi là thiện-nghiệp.

    TÍNH CHẤT CỦA NGHIỆP (KAMMA)

    Mỗi người đều có quyền hoàn toàn chủ động tự lựa chọn tạo ác-nghiệp nào hoặc thiện-nghiệp nào tùy theo khả năng của mình.

    Nếu người nào đã tạo ác-nghiệp nào, hoặc thiện nghiệp nào rồi thì ác-nghiệp ấy, hoặc thiện-nghiệp ấy chỉ thuộc về của riêng người ấy mà thôi, không có chung với một ai cả, không liên quan đến người nào khác.

    Thật ra, mỗi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng còn là hạng phàm-nhân và 3 bậc Thánh-nhân là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai (trừ bậc Thánh A-ra-hán) đã tạo mọi ác-nghiệp nào, mọi đại-thiện-nghiệp nào từ vô thủy trải qua vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại này, tất cả mọi ác- nghiệp ấy, mọi đại-thiện-nghiệp ấy dù nặng, dù nhẹ cũng đều được lưu trữ đầy đủ trọn vẹn ở trong tâm sinh rồi diệt liên tục từ kiếp này sang kiếp kia, trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài của mỗi chúng-sinh, của mỗi người, không hề bị mất mát một mảy may nào cả, dù cho thân bị thay đổi mỗi kiếp do nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng sinh, còn tâm vẫn sinh rồi diệt liên tục, có phận sự lưu trữ tất cả mọi ác-nghiệp, mọi đại-thiện-nghiệp của mỗi chúng-sinh nói chung, của mỗi người nói riêng.

    Đức-Phật dạy rằng:

    “Kammassako’mhi kammadāyādo, ...”

    Ta có ác-nghiệp, thiện-nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả khổ của ác-nghiệp, quả an-lạc của thiện-nghiệp của ta.

    * Tính chất quả của nghiệp (Kammaphala)

    Dĩ nhiên, chính mình là người chịu quả khổ của ác- nghiệp, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp của ta một cách hoàn toàn bị động, mà không thể lựa chọn theo ý của mình được.

    Trong cuộc sống, nếu ác-nghiệp nào của ta có cơ hội cho quả thì ta phải chịu quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy như người thừa hưởng quả khổ của ác-nghiệp (kam- madāyāda) cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy ta mới thoát ra khỏi được.

    Nếu đại-thiện-nghiệp nào của ta có cơ hội cho quả thì ta được hưởng quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy, như người thừa hưởng quả an-lạc của đại-thiện- nghiệp (kammadāyāda) cho đến khi mãn quả của đại- thiện-nghiệp ấy ta mới không còn hưởng quả ấy nữa.

    Tuy nhiên, quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp của ta, và quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp của ta không chỉ trực-tiếp riêng cho ta, mà quả xấu, quả khổ của ác- nghiệp ấy và quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy còn gián-tiếp ảnh hưởng đến những người thân quyến gần gũi thân cận với ta, và những chúng-sinh khác gần gũi, thân cận với ta nữa.

    ÁC-NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA ÁC-NGHIỆP

    Bất-thiện-nghiệp gọi là ác-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm gọi là 12 ác-tâm.

    Bất-thiện-tâm (ác-tâm) có 12 tâm đó là 8 tham-tâm + 2 sân-tâm + 2 si-tâm.

    * Tham-tâm có 8 tâm là:

    1- Tham-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà-kiến, không cần tác-động.

    2- Tham-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà- kiến, cần tác-động.

    3- Tham-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động.

    4- Tham-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, cần tác-động.

    5- Tham-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với tà-kiến, không cần tác-động.

    6- Tham-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với tà- kiến, cần tác-động.

    7- Tham-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động.

    8- Tham-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, cần tác-động.

    Sân-tâm có 2 tâm là:

    1- Sân-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, không cần tác-động.

    2- Sân-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, cần tác-động.

    Si-tâm có 2 tâm là:

    1- Si-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ xả, hợp với hoài-nghi.

    2- Si-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ xả, hợp với phóng-tâm.

    Nếu người nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết tự trọng, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) tạo 10 ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý như sau:

    10 ác-nghiệp theo thân, khẩu, ý:

    1- Thân ác-nghiệp có 3 loại:

    - Ác-nghiệp sát-sinh.

    - Ác-nghiệp trộm-cắp.

    - Ác-nghiệp tà-dâm.

    2- Khẩu ác-nghiệp có 4 loại:

    - Ác-nghiệp nói-dối.

    - Ác-nghiệp nói lời chia rẽ.

    - Ác-nghiệp nói lời thô tục.

    - Ác-nghiệp nói lời vô ích.

    3- Ý ác-nghiệp có 3 loại:

    - Ác-nghiệp tham lam của người khác,

    - Ác-nghiệp thù hận người khác.

    - Ác-nghiệp tà-kiến thấy sai chấp lầm.

    Ác-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất- thiện-tâm (ác-tâm) cho quả trong 2 thời-kỳ:

    - Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).

    - Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

    * Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (Paṭisandhikāla)

    Người nào đã tạo ác-nghiệp nào trong 10 loại ác-nghiệp, sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy trong 11 bất- thiện-tâm (ác-tâm) (trừ si-tâm hợp với phóng-tâm (1)) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) có 1 quả-tâm đó là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.

    - Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả ấy là quả của ác-nghiệp trong tham-tâm có nhiều năng lực làm phận sự tái-sinh kiếp sau thì hóa-sinh làm loài ngạ-quỷ hoặc loài a-su-ra, 2 loài chúng-sinh này thường có tham-tâm thèm khát.

    - Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác- nghiệp trong sân-tâm có nhiều năng lực làm phận sự tái- sinh kiếp sau thì hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa- ngục, chúng-sinh này thường bị thiêu đốt, bị hành hạ, chúng-sinh địa-ngục có tính sân hận.

    - Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả ác- nghiệp trong si-tâm có nhiều năng lực làm phận sự tái- sinh kiếp sau thì sinh làm loài súc-sinh; loài súc-sinh có tính si-mê.

    * Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại

    Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, ác-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) đều có cơ hội cho quả có 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm là quả của ác-nghiệp trong 12 ác-tâm.

    Bất-thiện-quả vô-nhân-tâm có 7 tâm là:

    1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp, thấy đối-tượng sắc xấu.

    2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác- nghiệp, nghe đối-tượng thanh dở.

    3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác- nghiệp, ngửi đối-tượng hương mùi hôi.

    4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác- nghiệp, nếm đối-tượng vị dở.

    5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ khổ là quả của ác-nghiệp, xúc giác đối-tượng xúc loại xấu.

    6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác- nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc loại xấu.

    7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác- nghiệp, suy xét 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc loại xấu.

    Đó là 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm là quả-tâm của ác- nghiệp trong ác-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng xấu.

    THIỆN-NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA THIỆN-NGHIỆP

    Thiện-nghiệp có 4 loại:

    - Dục-giới thiện-nghiệp trong 8 dục-giới thiện-tâm.

    - Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm.

    - Vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm.

    - Siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm.

    Dục-giới thiện-nghiệp trong 8 dục-giới thiện-tâm Dục-giới thiện-nghiệp gọi là đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới thiện-tâm gọi là 8 đại-thiện-tâm.

    ĐẠI-THIỆN-NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA ĐẠI-THIỆN-NGHIỆP

    Nếu người nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết tự trọng, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện- tâm tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý và tạo 10 phước-thiện puññakriyāvatthu.

    * Đại-thiện-tâm có 8 tâm là:

    1- Đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    2- Đại-thiện-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    3- Đại-thiện-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    4- Đại-thiện-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    5- Đại-thiện-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    6- Đại-thiện-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    7- Đại-thiện-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    8- Đại-thiện-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    * Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm tạo 10 đại-thiện-nghiệp theo 3 môn: thân-môn, khẩu-môn, ý- môn như sau:

    1- Thân đại-thiện-nghiệp có 3 loại:

    - Đại-thiện-nghiệp không sát-sinh.

    - Đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp.

    - Đại-thiện-nghiệp không tà-dâm.

    2- Khẩu đại-thiện-nghiệp có 4 loại:

    - Đại-thiện-nghiệp không nói-dối.

    - Đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ.

    - Đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục.

    - Đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích.

    3- Ý đại-thiện-nghiệp có 3 loại:

    - Đại-thiện-nghiệp không tham lam của người khác.

    - Đại-thiện-nghiệp không thù hận người khác.

    - Đại-thiện-nghiệp chánh-kiến thấy đúng biết đúng theo chánh-pháp.

    Đó là 10 đại-thiện-nghiệp theo 3 môn: thân, khẩu, ý.(1)

    * Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm tạo 10 phước-thiện puññakriyāvatthu. (2)

    1- Dānakusala: Phước-thiện bố-thí.
    2- Sīlakusala: Phước-thiện giữ-giới.
    3- Bhāvanākusala: Phước-thiện hành-thiền.
    4- Apacāyanakusala: Phước-thiện cung-kính.
    5- Veyyāvaccakusala: Phước-thiện hỗ-trợ.
    6- Pattidānakusala: Phước-thiện hồi-hướng.
    7-Pattānumodanākusala: Phước-thiện hoan-hỷ phần phước-thiện.
    8- Dhammassavanakusala: Phước-thiện nghe chánh-pháp.
    9- Dhammadesanākusala: Phước-thiện thuyết chánh-pháp.
    10- Diṭṭhijukammakusala: Phước-thiện chánh-kiến thấy đúng, biết đúng theo nghiệp của mình.

    Đó là 10 phước-thiện puññakriyāvatthu.

    Đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:

    - Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).

    - Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.

    * Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

    Người nào đã tạo đại-thiện-nghiệp, sau khi người ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời- kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 9 quả-tâm đó là 8 đại-quả-tâm và 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, gọi là dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới.

    8 đại-quả-tâm này có mỗi quả tâm tương xứng với 8 đại-thiện-tâm về đồng sinh với thọ, về hợp với trí-tuệ, về tác-động như sau:

    Đại-quả-tâm có 8 tâm là:

    1- Đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    2- Đại-quả-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    3- Đại-quả-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    4- Đại-quả-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    5- Đại-quả-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    6- Đại-quả-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    7- Đại-quả-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

    8- Đại-quả-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

    8 đại-quả-tâm có 2 loại tâm:

    - 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ.

    - 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ.

    * Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau

    - Nếu 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) sinh làm người thì thuộc về hạng người tam-nhân (1) (tihetuka- puggala) từ khi đầu thai làm người.

    Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người tam-nhân vốn có trí-tuệ, nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định thì có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện- tâm, chứng đắc các phép-thần-thông thế gian.

    Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền- tuệ thì có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành 4 bậc Thánh-nhân cao thượng trong Phật-giáo.

    - Nếu 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ làm phận sự trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) sinh làm người thì thuộc về hạng người nhị-nhân (1) (dvihetukapuggala) từ khi đầu thai làm người.

    Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người nhị-nhân vốn dĩ không có trí-tuệ, nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền nào cả.

    Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền- tuệ thì không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, không chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào cả.

    - Nếu 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp bậc thấp làm phận sự trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) sinh làm người thì thuộc về hạng người vô-nhân (2) (ahetukapuggala) đui mù, câm điếc từ khi đầu thai làm người.

    Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người vô-nhân đui mù, câm điếc, tật nguyền, ... hiểu biết bình thường không học hành được.

    Nếu người ấy đui mù, câm điếc, tật nguyền trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại thì không thể gọi là người vô-nhân được, bởi vì người ấy có sự hiểu biết đặc biệt gần như người bình thường.

    - Người thiện nào đã tạo đại-thiện-nghiệp, sau khi người thiện ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ: có hạng tam-nhân có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời, có hạng nhị-nhân có oai lực ít, có hào quang không rộng trên 6 cõi trời dục-giới, thậm chí cũng có hạng vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ vô-nhân có ít oai lực, có hào quang kém trong cõi chư-thiên trên mặt đất (bhummaṭṭhadevatā).

    * Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (Pavattikāla) kiếp hiện-tại

    Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại là loài người hoặc vị thiên-nam, vị thiên-nữ, đại-thiện- nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm cho quả gồm có 16 quả- tâm là 8 đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm là quả của đại-thiện-nghiệp tiếp xúc với những đối-tượng tốt đáng hài lòng.

    Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 tâm là:

    1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, thấy đối-tượng sắc tốt.

    2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại- thiện-nghiệp, nghe đối-tượng thanh hay.

    3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại- thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương thơm.

    4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị ngon.

    5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc là quả của đại-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc tốt.

    6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc tốt.

    7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại- thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc tốt.

    8- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ là quả của đại- thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc tốt đáng hài lòng.

    Đó là 8 thiện-quả vô-nhân-tâm là quả-tâm của đại- thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm tiếp xúc biết các đối- tượng tốt đáng hài lòng, đối với loài người hoặc vị thiên- nam, vị thiên-nữ trong 6 cõi trời dục-giới.

    SẮC-GIỚI THIỆN-NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA SẮC-GIỚI THIỆN-NGHIỆP

    Sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm.

    Hành-giả là hạng người tam-nhân có giới trong sạch và trọn vẹn, nương nhờ nơi giới, thực-hành pháp-hành thiền-định, có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm như sau:

    Bậc thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 bậc

    - Đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền là hướng-tâm (vitakka), quan-sát (vicāra), hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế ngự được 5 pháp- chướng-ngại (nīvaraṇa) là tham-dục, sân-hận, buồn- chán buồn-ngủ, phóng-tâm hối-hận, hoài-nghi.

    - Đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 chi-thiền là quan- sát (vicāra), hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế ngự được chi-thiền hướng-tâm (vitakka).

    - Đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền là hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế ngự được chi-thiền quan-sát (vicāra).

    - Đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế ngự được chi-thiền hỷ (pīti).

    - Đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā) do thay thế chi-thiền lạc (sukha) bằng chi-thiền xả (upekkhā).

    Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm chắc chắn cho quả trong 2 thời-kỳ:

    - Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).

    - Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

    *Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (Paṭisandhikāla)

    Hành-giả nào đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện- tâm, sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn sắc-giới thiện- nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 5 sắc- giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhi- citta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên) tương xứng với mỗi sắc-giới quả-tâm của hành-giả. Chư phạm-thiên hưởng an-lạc trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy cho đến hết tuổi thọ, mới chuyển kiếp (chết), tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác tùy theo thiện-nghiệp và quả của thiện- nghiệp của vị phạm-thiên ấy.

    Thật ra, nếu hành-giả nào có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết thì chỉ có sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao nào có quyền ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có bậc thiền sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa- sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm- thiên tương xứng với bậc thiền sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy mà thôi.

    Các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc thấp còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không có cơ hội cho quả được nữa.

    * Trường-hợp đặc biệt hành-giả nào đã chứng đắc đệ- ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm mà nhàm chán tâm biết các đối-tượng đó là nhàm chán 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng- uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) mà chỉ muốn có thân đó là sắc-uẩn mà thôi.

    Sau khi hành-giả ấy chết, đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện- nghiệp trong đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có nhóm sắc-pháp jīvitanavakakalāpa làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trong tư thế ngồi hoặc tư thế nằm hoặc tư thế đứng trên tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên. Vị phạm-thiên ấy chỉ có thân mà thôi, không có tâm, có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.

    Sau khi vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất tại tầng trời Vô-tưởng-thiên, chỉ có đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ kể từ kiếp thứ 3 về trước cho quả tái- sinh kiếp sau trong cõi thiện dục-giới (cõi người và 6 cõi trời dục-giới).

    * Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (Pavattikāla) kiếp hiện-tại

    Vị phạm-thiên nào trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có sắc-giới quả-tâm nào gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp 1 sát-na-tâm hóa-sinh làm vị phạm-thiên rồi diệt, tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện- tại, chính sắc-giới quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự hộ trì kiếp (bhavaṅgakicca) vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ; và cuối cùng cũng chính sắc-giới quả-tâm ấy trở thành tử-tâm cuti- citta: phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp vị phạm- thiên ấy tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy, rồi sẽ tái- sinh kiếp sau trong cõi giới khác tùy theo thiện-nghiệp và quả của thiện-nghiệp của vị phạm-thiên ấy.

    VÔ-SẮC-GIỚI THIỆN-NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA VÔ-SẮC-GIỚI THIỆN-NGHIỆP

    Vô-sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm.

    Sau khi hành-giả chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, muốn tiếp tục chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc- giới thiện-tâm, mỗi bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có mỗi đề-mục thiền-định riêng biệt dẫn đến chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm ấy.

    Bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có 4 bậc:

    - Đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô- biên-xứ-thiền thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).

    - Đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô- biên-xứ-thiền thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).

    - Đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là vô-sở- hữu-xứ-thiền thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).

    - Đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là phi-tưởng- phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).

    Vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện- tâm chắc chắn cho quả trong 2 thời-kỳ:

    - Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).

    - Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

    * Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (Paṭisandhikāla)

    Hành-giả nào đã chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn vô-sắc- giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) có 4 vô-sắc-giới quả-tâm gọi là vô-sắc-giới tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế- tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 4 tầng trời vô-sắc- giới phạm-thiên. Chư phạm-thiên hưởng an-lạc trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy cho đến hết tuổi thọ, mới chuyển kiếp (chết), tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác tùy theo thiện-nghiệp và quả của thiện-nghiệp của vị phạm-thiên ấy.

    Thật ra, nếu hành-giả nào có khả năng chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết thì chỉ có vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-tứ-thiền vô- sắc-giới thiện-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ- thiền thiện-tâm có quyền ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có phi-tưởng-phi-phi- tưởng-xứ-thiền quả-tâm gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Phi-tưởng-phi-phi- tưởng-xứ-thiên. Chư vị phạm-thiên chỉ có tâm mà thôi, không có thân, có tuổi thọ 84.000 đại-kiếp trái đất, lâu dài nhất trong tam-giới.

    Ba bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc thấp còn lại đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không có cơ hội cho quả được nữa.

    * Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại

    Vị phạm-thiên nào trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có vô-sắc-giới quả-tâm nào gọi là vô- sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái- sinh kiếp kế-tiếp 1 sát-na-tâm hóa-sinh làm vị phạm- thiên rồi diệt, tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, chính vô-sắc-giới quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự hộ trì kiếp (bhavaṅgakicca) vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ; và cuối cùng cũng chính vô-sắc-giới quả- tâm ấy trở thành tử-tâm cuticitta: phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp vị phạm-thiên ấy tại tầng trời vô-sắc- giới phạm-thiên ấy, rồi sẽ tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác tùy theo thiện-nghiệp và quả của thiện-nghiệp của vị phạm-thiên ấy.

    Như vậy, tóm lại dù người nào tạo ác-nghiệp vô-gián- trọng-tội nặng nhất, sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ suốt nhiều đại-kiếp trái đất cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục, rồi sẽ tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác tùy theo nghiệp và quả của nghiệp của người ấy.

    Và hành-giả nào có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn chỉ có vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm có quyền ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) có phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả- tâm gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên. Chư vị phạm-thiên có tuổi thọ 84.000 đại-kiếp trái đất lâu dài nhất trong tam-giới, hưởng an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ, rồi phải rời khỏi tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy, sẽ tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác tùy theo thiện- nghiệp và quả của thiện-nghiệp của vị phạm-thiên ấy.

    Cho nên, trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới chỉ là nơi tạm trú trong khoảng thời gian mau hoặc lâu đối với tất cả chúng-sinh trong ba giới bốn loài mà thôi, chắc chắn không có cõi-giới nào gọi là nơi thường trú cho một chúng-sinh nào cả.

    SIÊU-TAM-GIỚI THIỆN-NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA SIÊU-TAM-GIỚI THIỆN-NGHIỆP

    Siêu-tam-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm. Được phát sinh như sau:

    1- Hành-giả phàm-nhân thuộc về hạng người tam- nhân có giới trong sạch và trọn vẹn, nương nhờ nơi giới, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi), hoài-nghi (vicikicchā), trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

    2- Hành-giả là bậc Thánh Nhập-lưu tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.

    3- Hành-giả là bậc Thánh Nhất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh- quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại vi-tế, trở thành bậc Thánh Bất-lai.

    4- Hành-giả là bậc Thánh Bất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha,) ngã-mạn (māna), buồn-chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn tội-lỗi (ahirika), không biết ghê-sợ tội-lỗi (anottappa), diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

    4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm

    1- Nhập-lưu Thánh-đạo-tâm, Nhập-lưu Thánh-quả-tâm

    2- Nhất-lai Thánh-đạo-tâm, Nhất-lai Thánh-quả-tâm

    3- Bất-lai Thánh-đạo-tâm, Bất-lai Thánh-quả-tâm

    4- A-ra-hán Thánh-đạo-tâm, A-ra-hán Thánh-quả-tâm

    Thật ra, 4 siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh- đạo-tâm liền cho quả là 4 Thánh-quả-tâm tương xứng không có thời gian chờ đợi (akālikadhamma), trong cùng Thánh-đạo lộ-trình-tâm (maggavīthicitta).

    4 siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm không cho quả tái-sinh kiếp sau mà đặc biệt làm giảm kiếp tái-sinh kiếp sau theo khả năng của mỗi bậc Thánh- nhân như sau:

    - Bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới nữa, mà chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi. Đến kiếp thứ 7, bậc Thánh Nhập-lưu chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    - Bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới 1 kiếp nữa mà thôi. Ngay trong kiếp ấy, bậc Thánh Nhất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    - Bậc Thánh Bất-lai không còn tái-sinh kiếp sau trở lại cõi dục-giới mà chỉ còn tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên mà thôi, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn tại cõi trời sắc-giới phạm-thiên ấy, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    - Bậc Thánh A-ra-hán ngay trong kiếp hiện-tại chắc chắn sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

    Nghiệp và quả của nghiệp rất là công bình, không hề thiên vị một ai cả.

    TÍNH-CHẤT ĐẶC BIỆT QUẢ CỦA NGHIỆP (KAMMA PHALA)

    - Nếu bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) nào có cơ hội cho quả thì quả của ác-nghiệp là quả khổ, quả xấu mà chủ- nhân của ác-nghiệp ấy hoàn toàn bị động, không có quyền lựa chọn, không thể phủ nhận được mà phải chịu quả của ác-nghiệp ấy như người thừa hưởng quả của ác-nghiệp của mình (kammadāyāda) mà thôi.

    - Nếu đại-thiện-nghiệp nào có cơ hội cho quả thì quả của đại-thiện-nghiệp là quả an-lạc, quả tốt mà chủ-nhân của đại-thiện-nghiệp ấy hoàn toàn bị động, không có quyền lựa chọn, hưởng quả an-lạc của đại-thiện- nghiệp ấy như người thừa hưởng quả của đại-thiện- nghiệp của mình (kammadāyāda) mà thôi.

    Tuy nhiên, quả khổ, quả xấu của ác-nghiệp nào hoặc quả an-lạc, quả tốt của đại-thiện-nghiệp nào không chỉ trực-tiếp riêng cho chủ-nhân của nghiệp ấy, mà còn gián-tiếp ảnh hưởng đến những người thân gần gũi, thân cận với chủ-nhân của nghiệp ấy nữa.

    -oo0oo-

    (1) Tìm hiểu rõ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IV: Nghiệp Và Quả Của Nghiệp, cùng soạn giả.

    (2) Aṅguttaranikāya trong kinh Abhiṇhasutta.

    (3) Aṅguttaranikāya, Chakkanipāta, Nibbedhikasutta.

    ---

    (1) 36 hoặc 52 quả-tâm đó là 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm + 8 thiện-quả vô- nhân-tâm + 8 đại-quả-tâm + 5 sắc-giới quả-tâm + 4 vô-sắc-giới quả-tâm + 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm.

    (2) 20 duy-tác-tâm đó là 3 duy-tác vô-nhân-tâm + 8 đại-duy-tác-tâm + 5 sắc-giới duy-tác-tâm + 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm.

    ---

    (1) Si-tâm hợp với phóng-tâm có ít năng lực không có khả năng cho trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau, có thể cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.

    ---

    (1) Tìm hiểu rõ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo quyển IV: Nghiệp Và Quả Của Nghiệp, cùng soạn giả.

    (2) Tìm hiểu rõ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo quyển V: Phước-Thiện, cùng soạn giả

    ---

    (1) Người tam-nhân là người có tái-sinh-tâm đủ 3 nhân: vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ) từ khi đầu thai làm người.

    ---

    (1) Người nhị-nhân là người có tái-sinh-tâm chỉ có 2 thiện-nhân: vô-tham và vô-sân, không có vô-si, từ khi đầu thai làm người.

    (2) Người vô-nhân là người có tái-sinh-tâm không có nhân nào trong 3 thiện-nhân, từ khi đầu thai làm người.

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.