Trình bày thập thiện nghiệp dục giới

Trình bày thập thiện nghiệp dục giới

    THERAVADA
    PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

    THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN

    Hậu Sớ Giải

    Tỳ khưu Khải Minh

    PL. 2551 – DL. 2008

     

    Thích Giải Pāli điều thứ 13 rằng: "Kāmāvacarakusalampi ... tividhaṃ hoti". Từ: "Api" trong câu:

    "Kāmāvacarakusalampi" này là từ "Vuttasamuccayanipāta" tức gom lại cho hiểu được ý nghĩa đã và đang trình bày cũng giống nhau. Việc gom ý nghĩa lại cho hiểu được bằng cách dùng từ "Api" tức không phải chỉ duy nhất bất thiện nghiệp có 3 loại mà ngay cả thiện dục giới cũng có 3 loại giống như vậy.

    *

    TRÌNH BÀY THẬP THIỆN NGHIỆP DỤC GIỚI

    * 3 Thân Nghiệp:

    1. Pāṇātipātavirati: Tránh xa sát sanh.

    2. Adinnādānavirati: Tránh xa trộm cắp.

    3. Kāmesumicchācāravirati: Tránh xa tà dâm.

    * 4 Ngữ Nghiệp:

    4. Musāvādavirati: Tránh xa nói dối.

    5. Pisuṇavācāvirati: Tránh xa nói đâm thọc.

    6. Pharusavācāvirati: Tránh xa nói thô tục.

    7. Samphappalāpavirati: Tránh xa lời nói vô ích.

    * 3 Ý Nghiệp:

    8. Anabhijjhā: Thu thúc không cho tham ác sanh lên.

    9. Abyāpāda: Thu thúc không cho sân ác sanh lên.

    10. Sammādiṭṭhi: Quan kiến chính chắn (chánh kiến).

    Thập thiện nghiệp dục giới như đã trình bày trên gọi là thập thiện nghiệp đạo hay thập thiện hạnh.

    Nhóm thập thiện hạnh này nếu tính theo chi tiết có 30 hoặc 40 tức một hành động hội đủ 3 tư:

    1- Pubbacetanā: Chủ tâm trước khi làm (tư tiền).

    2- Muñcacetanā: Chủ tâm trong khi làm (tư hiện).

    3- Aparacetanā: Chủ tâm sau khi làm (tư hậu).

    Do đó, thập thiện hạnh nhân cho 3 tư thành 30 thiện hạnh. Tính theo 40 thì 1 hành động thiện hạnh phân ra thành 4 cách:

    1- Sahatthikasucarita: Tự mình làm.

    2- Āṇatthikasucarita: Xúi biểu người khác làm.

    3- Vaṇṇabhāsanasucarita: Biểu thị lợi ích của việc làm thiện.

    4- Samanuññāsucarita: Thỏa thích hoan hỷ trong việc làm thiện.

    TRÌNH BÀY CHI PHÁP CỦA THẬP THIỆN NGHIỆP DỤC GIỚI

    - 3 thân nghiệp hay 3 thân thiện hạnh chi pháp sở hữu chánh nghiệp và sở hữu chánh mạng.

    - 4 ngữ nghiệp hay 4 ngữ thiện hạnh chi pháp sở hữu chánh ngữ và sở hữu chánh mạng.

    - 3 ý nghiệp hay 3 ý thiện hạnh gồm có ly tham ác chi pháp sởhữu vô tham; ly sân ác chi pháp vô sân; chánh kiến sở hữu trí tuệ.

    *

    TRÌNH BÀY NHÂN TRONG VIỆC ĐẶT TÊN THÂN NGHIỆP & NGỮ NGHIỆP

    Cả 3 nghiệp như tránh xa sát sanh… được gọi là 3 thân nghiệp; tránh xa nói dối… được gọi là 4 ngữ nghiệp. Các nhóm này thường khác nhau tên gọi với 3 thân ác hạnh và 4 ngữ ác hạnh. Nghĩa là ác hạnh mà được gọi là thân nghiệp do hầu như sanh lên bằng thân. Ác hạnh mà được gọi là ngữ nghiệp do phần nhiều sanh lên bằng ngữ. Riêng đối với thiện nghiệp được gọi là 3 thân nghiệp và 4 ngữ nghiệp, nhóm này hầu như thường sanh lên bằng tâm. Còn bằng thân và bằng ngữ phần nhiều thường không liên tục. Bởi vì chỉ để tâm suy nghĩ tránh xa 3 thân ác hạnh, 4 ngữ ác hạnh sanh lên duy nhất từ sở hữu tư, chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng được gọi là 3 thân thiện nghiệp, 4 ngữ thiện nghiệp. Chính do nhân này 3 thân thiện nghiệp, 4 ngữ thiện nghiệp nhóm này mới được gọi là phi sở sanh hành vi (akiriyasamuṭṭhāna). Tức thiện nghiệp sanh lên bằng tâm không phải nương vào thân, ngữ làm sở sanh.

    Hỏi: 3 thân thiện nghiệp, 4 ngữ thiện nghiệp này không khởi hiện liên quan đến thân biểu tri, ngữ biểu tri hay sao?

    Đáp: Không phải như vậy. Đôi khi cũng sanh lên liên quan đến thân biểu tri, ngữ biểu tri nhưng cũng không phải thường xuyên.

    - Tránh xa sát sanh (Pāṇātipātavirati). Người thỉnh thoảng tự mình làm nội trợ. Trong lúc khởi sự nấu nướng đã bắt con cá để làm, khi thấy con cá vẫn còn sống thì không nỡ làm mà lại đem con cá đi thả xuống nước.

    Như câu chuyện nàng Sujàtà lúc nàng tái sanh làm thân cò đã thọ trì 4 giới. Trong lúc mổ cá để ăn, thấy con cá còn sống thì không ăn mà đem thả xuống nước. Đây gọi là tránh xa sát sanh liên quan đến thân biểu tri.

    - Tránh xa trộm cắp (Adninādānavirati). Người giúp việc thân tín nhìn thấy viên kim cương của ông chủ mình lơ đểnh làm rơi xuống đất, thì nhặt lấy đem lại chổ ban đầu cho ông chủ. Đây gọi là tránh xa trộm cắp liên quan đến thân biểu tri.

    - Tránh xa tà dâm (Kāmesumicchācāravirati). Nữ nhân đã làm lễ đính hôn với một nam nhân nên giữa đôi bên đã có quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng khi vị hôn phu đến thăm tỏ cử chỉ âu yếm thì nữ nhân đó không chìu chuộng mơn trớn mà chỉ đối đãi thông thường theo xã giao đã từng quen biết mà thôi. Đây gọi là tránh xa tà dâm liên quan đến thân biểu tri.

    Ba thân nghiệp như tránh xa sát sanh… sanh lên liên quan đến thân biểu tri như đã trình bày trên có chi pháp là sở hữu chánh nghiệp hoặc sở hữu chánh mạng theo tương ứng.

    Bốn ngữ thiện nghiệp như người thường nói dối, nói đâm thọc, xúi giục hoặc chửi mắng người khác bằng lời thô tục… nói nhảm nhí vu vơ. Khi đã được giáo huấn tu tập trong Pháp Luật toàn hảo rồi, thì từ bỏ nói dối… mà mình thường nói từ trước được dứt hẳn nên được gọi là 4 ngữ thiện nghiệp như tránh xa nói dối… sanh lên liên quan đến ngữ biểu tri, chi pháp là sở hữu chánh ngữ hoặc sở hữu chánh mạng.

    Tóm lại: Thiện nghiệp được gọi là 3 thân nghiệp, 4 ngữ nghiệp như đã trình bày trên đều sanh lên bằng ý, bằng thân, bằng ngữ. Nên nhận định từ chi pháp, nếu chi pháp thuần nhất là sở hữu tư thì thân thiện nghiệp, ngữ thiện nghiệp, sanh lên bằng ý. Nếu chi pháp là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thì thân thiện nghiệp, ngữ thiện nghiệp sanh lên bằng ngữ. Do nhân này, Ngài A xà lê Anuruddha đã trình bày trong bộ Nāmarūpapariccheda:

    Taṃtaṃdvārikamevāhu
    Taṃtaṃdvārikapāpato
    Viramantassa viññatti
    Vinā vā saha vā puna

    Ngoại trừ các bất thiện hạnh sanh lên bằng thân và bằng ngữ, thì cho dù các thiện hạnh không liên quan đến sắc biểu tri hoặc có liên quan đến sắc biểu tri đi nữa đều được các Ngài A xà lê đề cập rằng: "Thuộc thân thiện nghiệp và ngữ thiện nghiệp được cả".

    Trong việc gọi tên thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp thì hành động đó có 2 phương thức:

    Phương thức 1: Trong thập phước nghiệp sự như bố thí… nếu thành tựu bằng hành động thân thì phước nghiệp sự đó được gọi là thân thiện nghiệp. Nếu thành tựu bằng việc phát ngôn thì được gọi là ngữ thiện nghiệp. Nếu không liên quan đến đổng lực nào mà chỉ chủ tâm bố thí, trì giới, tu tiến thì được gọi là ý thiện nghiệp. Do đó, thập phước nghiệp sự theo phương thức 1 mới có số lượng là 30:

    Thân nghiệp thí như tự tay mình xả thí. Ngữ nghiệp thí như trong lúc huê trai tăng hoặc sắp xếp chuẩn bị chỉ bảo cho họ đem các vật thí đến cúng dường. Ý nghiệp thí như chủ tâm suy tính cúng dường.

    Thân nghiệp trì giới như thu thúc thân. Ngữ nghiệp trì giới như thu thúc ngữ hoặc trong lúc đang xin thọ trì 5 giới, 8 giới, 10 giới. Ý nghiệp trì giới như cố ý ngăn ngừa theo điều học đó.

    Thân nghiệp tu tiến như ngồi thính pháp hoặc đi, đứng, nằm, ngồi trong lúc tu tiến Chỉ Tịnh và Minh Sát. Ngữ nghiệp tu tiến như trong lúc đọc thuộc lòng Pháp Luật hoặc chú niệm trong việc tu tiến Chỉ Tịnh và Minh Sát.

    Cung kỉnh… cho đến chấn chỉnh tri kiến cũng có 3 loại như vậy.

    Phương thức 2: Thông thường trong tất cả chúng ta người có thân, ngữ, ý thanh tịnh hoặc bất tịnh cũng do việc thu thúc phòng hộ. Nếu không thu thúc phòng hộ thì thân, ngữ, ý sẽ bất tịnh. Do đó, lúc nào thân, ngữ, ý bất tịnh thì ác hạnh sanh lên nên cần phản tỉnh lại mình rằng: "Sự thu thúc thân, ngữ, ý của mình đã diệt mất". Rồi bắt đầu tinh cần trở lại để củng cố thiện tâm cho sanh khởi như thiện dục giới, thiện đáo đại hoặc thiện siêu thế để đoạn trừ ác bất thiện hạnh đã sanh lên.

    Khi chủ tâm tạo một loại phước thiện nào thì lúc đó nếu thu thúc phòng hộ đặc biệt về phần thân thì thiện sanh lên gọi là thân thiện nghiệp hoặc thân thiện hạnh. Nếu thu thúc phòng hộ đặc biệt riêng về ngữ thì gọi là ngữ thiện nghiệp hoặc ngữ thiện hạnh. Còn việc tạo trữ những thiện pháp ngoài việc thu thúc phòng hộ đặc biệt về thân và ngữ thì các thiện pháp này sanh lên bằng thân cũng có, bằng ngữ cũng có, bằng ý cũng có. Nhưng dù thế nào đi nữa, việc tạo các thiện pháp này điều chỉ là thu thúc phòng hộ ý để tẩy sạch tâm cho thanh tịnh. Vì vậy, việc kiến tạo các thiện pháp như bố thí, trì giới, tu tiến… cho dù sanh lên bằng thân, ngữ, ý đi nữa mà không liên quan đến thu thúc thân, thu thúc ngữ thì các thiện pháp đó cũng gọi là ý thiện nghiệp hoặc ý thiện hạnh .

    Việc đặt tên thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp trong việc làm thiện theo cả 2 phương thức này. Thì phương thức thứ 2 là phương thức quan trọng trong Phật Giáo và đúng theo tôn chỉ của Đức Phật. Bởi vì, việc tạo trữ bất cứ thiện pháp sai biệt trong Phật Giáo như: Bố thí, trì giới, tu tiến hoặc thiện dục giới, thiện đáo đại, thiện siêu thế nào cũng nhắm đến kỳ vọng duy nhất là làm cho tâm đoạn trừ bất thiện. Cho nên phương thức thứ 2 mới liệt vào cốt lõi trọng yếu nhất trong Phật Giáo.

    *

    THÍCH GIẢI PĀLI ĐIỀUTHỨ 14 "TATHĀ DĀNASĪLABHĀVANĀVASENA"

    Theo điều Pāli này trình bày cho biết thiện nghiệp dục giới, nói về nghiệp môn có có 3 loại được gọi là thập thiện nghiệp đạo. Nói theo cách hành động cũng có 3 như:

    1. Bố thí tài vật gọi là thiện thí.

    2. Thúc liễm thân ngữ cho nghiêm túc gọi là thiện giới.

    3. Trau dồi tâm cho có Định Tuệ gọi là thiện tu tiến.

    Lại nữa, việc trình bày thiện dục giới mà thành tựu thiện nghiệp đạo chỉ là trình bày thập thiện hạnh như tránh xa sát sanh… cũng chưa đủ. Bởi thiện dục giới khác như bố thí, trì giới, tu tiến mà thành tựu nghiệp đạo vẫn còn nữa.

    Do đó, Ngài A xà lê Anuruddha mới có ý định cho biết đến nhóm thiện pháp này, nên trình bày tiếp theo rằng: "Tathā dānasīlabhāvanāvasena". Vì vậy, thập thiện nghiệp đạo hoặc thập thiện hạnh đã trình bày, trong phần đầu nhân cho bố thí, trì giới, tu tiến thì thành số lượng 30.

    Trường hợp khác nữa, ngoại trừ đổng lực thiện dục giới sanh lên từ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân (lộ ngũ môn), trong lúc gần lâm chung (lộ cận tử) trong lúc nằm mộng (lộ chiêm bao). Khi nhóm này diệt mất rồi, thì tất cả thiện nghiệp dục giới ngoài ra cho dù đủ chi hay không đủ chi đều là nghiệp đạo (kammapatha) trợ cho sanh vào nhàn cảnh.

    Nhưng cho dù như vậy, việc cho quả trong thời tái tục cũng chưa được chắc chắn vì thiện nghiệp dục giới thuộc nghiệp đạo hỗ trợ cho sanh vào nhàn cảnh phải nhận được sự trợ giúp từ thiện nghiệp trong quá khứ mới hỗ trợ sức mạnh cho quả trong thời tái tục được. Nhưng dù thế nào đi nữa bố thí, trì giới, tu tiến, nhóm này đều là nghiệp đạo trợ sanh lên nhàn cảnh.

    Do đó, Ngài A xà lê Anuruddha mới trình bày tiếp nữa rằng: "Tathā dānasīla bhāvanavasena" "Thiện dục giới có 3 loại nói theo bố thí, trì giới, tu tiến.

    *

    THÍCH GIẢI PĀLĪ ĐIỀU THỨ 15 "CITTUPPĀDASENA PANETAṂ AṬṬHAVIDHAṂ HOTI"

    Những hành động sai biệt bằng thân, ngữ, ý thiện lành trong mọi trường hợp của dân gian mà các bậc chân nhân nhìn nhận là thiện, vì không có mâu thuẩn đối nghịch lại với lời dạy của bậc Chánh Đẳng Giác. Hằng ngày những việc làm thiện mà dân gian đã kiến tạo diễn tiến trong cuộc sống đều là thiện dục giới cả. Các việc thiện đó khi diễn tả theo ngôn ngữ của dân gian thì có vô số trường hợp. Nhưng dù thế nào đi nữa, các nhóm thiện này không ngoài thập thiện nghiệp đạo và thập phước nghiệp sự.

    Do đó, sự trình bày việc làm thiện thuộc thập thiện nghiệp đạo và thập phước nghiệp sự này là trình bày theo lối dân gian theo lý Kinh Tạng. Nhưng nếu trình bày việc làm thiện số lượng 20 theo lý thực tánh, thì chỉ có 8 tâm đại thiện. Lại nữa, hành động mà tất cả mọi người đang làm, nếu nói theo thực tánh pháp thì chỉ là danh và sắc. Tức thân và tâm là người hành động mà thôi. Như thân có phận sự thực hành, tâm có chức năng ra lệnh giống như người làm công và ông chủ. Hoặc giống như chiếc xe và người tài xế.

    Do đó, người không hiểu về danh pháp (tâm) mà chỉ hiểu về sắc pháp tức chỉ đơn thuần là thân thể, thì khi tự mình tạo bất thiện hoặc thấy người khác tạo bất thiện không thể sửa đổi để trở thành thiện được; nếu được cũng chỉ sửa đổi sơ sài chút ít. Khi tự mình kiến tạo thiện pháp hoặc thấy người khác kiến tạo thiện pháp cũng không thể huân tập hỗ trợ cho thiện tăng trưởng lên được. Nếu được cũng chỉ được chút ít mà không thể sách tấn hỗ trợ để tác động sâu lắng thật sự vào tâm được. Như vậy việc sửa đổi huân tập, hỗ trợ của chúng ta là làm cho tâm được tốt đẹp hơn, còn sắc tức thân thể chỉ đơn thuần là vật chất bên ngoài.

    Về phần người hiểu biết được tường tận về danh sắc. Nếu sửa đổi việc làm thuộc về thân, ngữ, ý bất thiện của chính mình hoặc của người khác thì sẽ đưa đến kết quả mỹ mãn. Khi có cơ hội thì việc làm thiện hỗ trợ cho thân, ngữ, ý của mình hoặc của người khác mới đưa đến tác động sâu lắng thật sự vào tâm được.

    Việc diễn tiến như vậy, do liên quan đến tầm quan trọng của danh sắc. Thân và tâm có tầm quan trọng khác nhau. Như thân có nhiệm vụ làm theo lời chỉ thị của tâm; tâm có phận sự suy tính cân nhắc, sắp xếp cho thân, ngữ là sắc làm theo lời chỉ thị của mình .

    Do đó, việc làm thiện thuộc thập thiện nghiệp đạo và thập phước nghiệp sự hiển lộ rõ ràng trong mỗi người, mỗi lời nói được vì nhân liên quan từ 8 tâm đại thiện là danh pháp. Nếu không có 8 tâm đại thiện này thì việc làm thiện như thập thiện nghiệp đạo và thập phước nghiệp sự vĩnh viễn không khởi hiện. Chỉ còn lại duy nhất hành động ác hạnh hiện hữu trong nhân giới liên quan bởi tâm bất thiện điều xử. Như vậy, thì nhân giới cũng không có gì khác với bàng sanh giới. Nếu nói ngắn gọn nữa, lúc nào 8 tâm đại thiện điều xử thân, ngữ làm việc thì lúc đó hành động của tất cả mọi người an trú trong thập thiện nghiệp đạo, thập phước nghiệp sự. Lúc nào 12 tâm bất thiện điều xử thì chính lúc đó sẽ là hành động ác hạnh.

    Do đó, Ngài A xà lê Anuruddha muốn cho hiểu đến chi pháp nhân của hành động thập thiện nghiệp đạo và thập phước nghiệp sự tiếp theo bằng Pāli rằng: "Cittuppādavasena panetaṃ aṭṭhavidhaṃ hoti" "Sự khởi hiện của thiện nghiệp dục giới có 8 tâm".

    *

    THÍCH GIẢI PĀLI ĐIỀU THỨ 16 TRÌNH BÀY ĐẾN THẬP PHƯỚC NGHIỆP SỰ

    Từ: "Puññakiriyavatthu" này là ngôn ngữ Pāli tức việc thiện cần phải tạo vì là nhân cho quả an lạc.

    Khi phân ra được làm 3 từ: Puñña + Kriya + Vatthu. Puñña: Hành động thiện để tẩy sạch sầu muộn nhiệt não. Kriyacần phải tạo. Vatthu: Nhân cho quả an lạc.

    Như định nghĩa trình bày sau: "Attano santānaṃ punāti sadhetīti: Puññaṃ" "Hành động nào hằng tẩy rửa cơ tánh của chúng ta được trong sạch, hành động đó gọi là phước tức bố thí, trì giới, tu tiến…"

    "Sappurisehi kātabbanti: Kriyaṃ" Hành động nào mà các bậc chân nhân kiến tạo, hành động đó gọi là Kriya tức bố thí, trì giới, tu tiến …"

    "Tete anisaṃsā vatasanti tiṭṭhanti etthāti: Vatthu" "Quả báo sai biệt thường hiện diện trong hành động nào, hành động đó gọi là bố thí, trì giới,tu tiến …"

    "Kriyaṃ puññaṃ: Puññakriyaṃ" "Việc thiện mà các bậc chân nhân cần phải kiến tạo gọi là Punñakriya".

    "Puññakriyañca taṃ vatthucāti: Puññakriyatthu" "Hành động thiện mà các bậc chân nhân cần phải kiến tạo làm nền tảng cho quả an lạc, hành động đó gọi là Puññakriyatthu. Tức bố thí, trì giới, tu tiến …"

    *

    THẬP PHƯỚC NGHIỆP SỰ TRÌNH BÀY THEO 2 LÝ KINH & THẮNG PHÁP

    Trình bày theo lý Kinh thì thập phước nghiệp sự có số lượng 30 tức thân nghiệp thí, ngữ nghiệp thí, ý nghiệp thí…

    Trình bày theo lý Thắng Pháp thì thập phước nghiệp sự có số lượng 11 hoặc 23:

    - Bố thí có 1 là ý nghiệp thí thuộc ly tham ác (anabhijjā).

    - Trì giới có 2 là thân nghiệp giới, ngữ nghiệp giới thuộc 3 thân nghiệp, 4 ngữ nghiệp.

    - Tu tiến, cung kỉnh, phục vụ có 1 là ý nghiệp thuộc ly sân ác và chánh kiến.

    - Tùy hỷ phước, hồi hướng phước mỗi pháp có 1 là ý nghiệp thuộc ly tham ác và chánh kiến.

    - Thính pháp có 1 là ý nghiệp thuộc chánh kiến.

    - Thuyết pháp có 1 là ý nghiệp thuộc ly tham ác, ly sân ác, chánh kiến.

    - Chấn chỉnh tri kiến có 1 là ý nghiệp thuộc chánh kiến.

    *

    TRÌNH BÀY ĐỊNH NGHĨA VỀ THẬP PHƯỚC NGHIỆP SỰ CÙNG VỚI LỜI THÍCH GIẢI & PHÂN LOẠI

    DĀNA: BỐ THÍ

    BỐ THÍ (dāna): Được trình bày định nghĩa như sau: "Dūyati etenāti: Dānaṃ". Người cho bằng chủ tâm (tư) nào, chủ tâm làm nhân cho việc cho đó gọi là Bố Thí.

    Từ "bố thí" theo định nghĩa này tức chủ tâm làm nhân cho việc bố thí đã hoàn tất rồi.

    Một lý khác nữa, "Dātabbanti: Dānaṃ". Vật phẩm nào mà người cho vật phẩm đó gọi là bố thí, tức vật thí (Dātabbavatthu hoặc Deyyadhamma).

    Cả hai định nghĩa này là pháp cho biết bố thí có 2 loại là tư thí và vật thí. Trong 2 loại thí này thì tư thí có 3 nói theo thời như:

    Pubbacetanādāna: Chủ tâm trước khi cho kể từ khi suy tính sẽ tạo phước thí hoặc kể từ khi tìm kiếm vật phẩm để bố thí.

    Muñcacetanādāna: Chủ tâm trong lúc đang cho.

    Aparacetanādāna: Chủ tâm sau khi cho hoàn tất rồi vui thích hân hoan.

    Cả 3 tư trên nếu có cơ hội sẽ có khả năng cho quả trong thời tái tục sanh làm người, trời, như trong Apadāna trình bày rằng:

    Ekapupphaṃ yajitvāna Asītikappakoṭiyo

    Duggatiṃ nābhiyānāmi Ekapupphassidaṃ phalaṃ

    "Sự cúng dường một cành hoa làm cho tôi không từng biết sự sanh vào khổ cảnh như địa ngục… như thế nào, suốt 800 triệu thọ kiếp (āyukappa) hoặc 800 triệu kiếp sống".

    Đây chính là quả báo nhận được từ việc cúng dường chỉ một cành hoa.

    Theo Pāli trình bày trên không phải chỉ việc cho quả sanh làm người, trời liên tục nối tiếp nhau suốt 800 triệu kiếp sống mà chỉ là nhân trợ giúp cho sanh làm người, trời trong kiếp thứ 2. Khi được sanh làm trời, người trong kiếp thứ 2 rồi thì kiến tạo các thiện pháp mới nữa, thiện pháp mới trong kiếp thứ 2 sẽ trợ giúp cho sanh làm trời, người trong kiếp thứ 3. Khi sanh làm trời, người trong kiếp thứ 3 rồi thì kiến tạo các thiện pháp mới nữa, thiện pháp mới trong kiếp thứ 3 đó sẽ trợ giúp cho sanh làm người trong kiếp thứ 4. Tiếp theo như vậy mãi không dứt khoảng suốt 800 triệu kiếp sống.

    Do đó, Ngài mới đề cập quả báo của sự cúng dường chỉ một cành hoa mà có thể thoát khỏi khổ cảnh suốt thời gian lâu dài.

    Lại nữa, cả 3 tư thí như tư tiền… không phải thường xuyên trong một lúc có đủ cả 3 tư. Đôi khi có tư tiền nhưng lại không có tư hiện, tư hậu; đôi khi có tư hiện nhưng lại không có tư tiền, tư hậu; đôi khi có tư hậu lại không có tư tiền, tư hiện. Đôi khi có tư tiền và tư hiện nhưng lại không có tư hậu; đôi khi có tư hiện và tư hậu nhưng lại không có tư tiền; đôi khi có tư tiền và tư hậu nhưng lại không có tư hiện. Đôi khi cũng có đầy đủ cả 3 tư.

    Trong cả 3 tư này, nếu nói theo việc sanh khởi dễ dàng hoặc khó khăn thì tư hiện dễ sanh khởi, tư hậu khó sanh khởi. Cho nên nếu tư sanh lên không đủ 3 thời như đã trình bày thì việc bố thí thường không có thù thắng. Vì vậy, nên tinh cần làm cho cả 3 thời hoàn hảo thì việc bố thí thường cho quả thù thắng.

    Nếu nhận thức do nhân nào mà có sự khác biệt của 6 tầng trời dục giới và tất cả mọi người trên thế gian này cả quá khứ lẫn hiện tại về sanh chủng, dòng tộc, địa vị, tài sản và về thuộc hạ tùy tùng…Được hiện hữu như vậy cũng do nhân bố thí, trì giới, tu tiến đầy đủ tư hoặc không đủ tư trong cả 3 thời, thiếu đi 1 tư nào hay không có tư nào hết làm nhân. Do đó, Đức Thế Tôn mới chỉ dạy trong Tăng Chi Bộ Kinh pháp 6 chi ChalaṅguttaraPāli rằng:

    Pubbeva sumano dānā Dadaṃ cittaṃ pasādaye

    Datvā attamano hoti Esā puññassa sampadā

    "Hãy hoan hỷ trước khi làm, hãy tịnh tín trong khi làm, khi đã làm xong rồi hãy thỏa thích. Sự diễn tiến của tâm trong cả 3 trạng thái như vậy thì việc tạo phước sẽ được viên mãn thù thắng làm cho ước muốn của mình được thành tựu.

    Ngài A xà lê Mahābuddhaghosa đã trình bày trong sớ giải Tăng Chi Bộ Kinh pháp 7 chi rằng:

    "Dānañhināma tisso cetanā paripuṇṇaṃ kātuṃ sakkontasseva mahapphalaṃ hoti"

    "Sự san xẻ bố thí cần phải đầy đủ cả 3 thời. Người bố thí được viên mãn như vậy thì bố thí đó mới có quả vô lượng".

    *

    Vật thí có 4 loại

    1- Cīvaradāna: Cúng dường y cho chư tỳ kheo, sa di hoặc bố thí quần áo cho người nghèo.

    2- Piṇḍapātadāna: Để bát cúng dường hoặc bố thí vật thực cho người nghèo.

    3- Senāsanādāna: Cúng dường trú xứ như xây cất cốc liêu, xây tịnh xá, xây giảng đường… hoặc bố thí phước xá cho người nghèo.

    4- Bhesajjadāna: Cúng dường thuốc trị bệnh hoặc bố thí thuốc cho bệnh nhân.

    Sự bố thí có nhiều loại nhưng chỉ trình bày vừa đủ cho thấy theo tóm tắt sau đây:

    *

    Bố thí nhóm 2 (dukadāna)

    1. Āmisadāna: Bố thí các vật dụng…

    2. Dhammadāna: Bố thí pháp như thuyết pháp, dạy pháp và ấn loát kinh sách để bố thí.

    Trong 2 loại bố thí này thì bố thí pháp tối thắng hơn bố thí vật chất. Như có Pāli trình bày: "Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti" "Bố thí pháp thắng tất cả thí".

    Bố thí vật chất cho quả được tài sản vật chất đầy đủ. Bố thí pháp cho quả phát sanh trí tuệ.

    Một lý khác:

    1. Sahatthikadāna: Tự mình bố thí.

    2. Āṇattikadāna: Sai biểu người khác bố thí giùm.

    Tự mình bố thí tối thắng hơn sai nhờ người khác bố thí giùm vì cho quả sanh làm người được sung túc tài sản, đầy đủ thuộc hạ tùy tùng. Còn sai biểu người khác bố thí giùm khi cho quả mặc dù có tài sản đầy đủ nhưng không có thuộc hạ tùy tùng.

    Một lý khác:

    1. Sampajānadāna: Tạo phước thí mà hiểu rõ quả báo của việc làm đó.

    2. Asampajānadāna: Tạo phước mà không hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp.

    Tạo phước thí mà hiểu rõ quả báo của việc làm khi cho quả thường làm người có đầy đủ tài sản và dồi dào trí tuệ.

    Tạo phước thí mà không hiểu rõ về nghiệp và quả của nghiệp khi cho quả sanh làm người có đầy đủ tài sản nhưng thiếu trí tuệ.

    Một lý khác:

    1. Vaṭṭanissitadāna: Tạo phước thí mà mong muốn đầy đủ tài sản như ước nguyện giàu sang, làm phú hộ, đại phú hộ, đại trưởng giả và ước muốn được thành đạt sanh hữu như được sanh làm người, chư thiên, Phạm Thiên.

    2. Vivaṭṭanissitadāna: Tạo phước thí nhưng không ước muốn đầy đủ tài sản và sanh hữu chỉ ước nguyện một loại nào về tuệ Toàn Giác Phật, Độc Giác Phật, Chí Thượng Thinh Văn Giác, Đại Thinh Văn Giác, Thinh Văn Giác thường.

    Vaṭṭanissitadāna (luân thí): Không gọi là bố thí Ba La Mật chỉ thuộc thiện thí thông thường cho quả an lạc nhân, thiên không thể trợ giúp cho đắc chứng Đạo, Quả, Níp Bàn được.

    Vivaṭṭanissitadāna (ly luân thí): Gọi là bố thí Ba La Mật cho quả được hưởng lạc nhân, thiên và có năng lực chứng đắc Đạo, Quả, Níp Bàn được nhanh chóng.

    *

    Bố thí nhóm 3 (tikadāna)

    Trong bố thí nhóm 3 này có 3 cách như:

    Hīnadāna, Majjhimadāna, Paṇītadāna.

    Cách thứ 1:

    Hīnadāna: Tạo phước bậc hạ như tạo phước thí mà mong muốn lợi lộc, danh xưng, địa vị, tán thán.

    Majjhimadāna: Tạo phước bậc trung như tạo phước thí mà mong muốn nhân sản, thiên sản.

    Paṇītadāna: Tạo phước thí bậc thượng như tạo phước thí theo đường lối của bậc Thánh và chư Bồ Tát chỉ ước nguyện Níp Bàn.

    Cách thứ 2:

    Hīnadāna: Tạo phước bậc hạ như tạo phước thí mà ước muốn nhân sản, thiên sản.

    Majjhimadāna: Tạo phước bậc trung như tạo phước thí mà ước nguyện tuệ Thinh Văn Giác, tuệ Độc Giác Phật.

    Paṇītadāna: Tạo phước bậc thượng như tạo phước thí mà hoài vọng tuệ Toàn Giác Phật.

    Cách thứ 3:

    Hīnadāna: Tạo phước bậc hạ như tạo phước thí câu hành với dục, cần, tâm, thẩm yếu kém do có sự thỏa thích am tường, nổ lực, quan tâm đến việc tạo phước đó chỉ chút ít.

    Majjhimadāna: Tạo phước bậc trung như tạo phước thí câu hành với dục, cần, tâm, thẩm vừa chừng do có sự thỏa thích am tường, tinh cần, quan tâm đến việc tạo phước theo bản năng thường nhiên.

    Paṇītadāna: Tạo phước bậc thượng như tạo phước thí câu hành với dục, cần, tâm, thẩm thù thắng do có sự thỏa thích, thấu đáo, chuyên cần, quan tâm đến việc tạo phước thiện đúng theo đường lối của các bậc chân nhân.

    Một lý khác:

    1. Dāsadāna: Tạo phước thí bằng vật dụng thấp kém hơn vật dụng mà mình xài.

    2. Sahāyadāna: Tạo phước thí có giá trị ngang bằng với vật dụng mà mình đang xài.

    3. Sāmīdāna: Tạo phước thí bằng vật dụng tốt hơn vật dụng mà mình đang xài.

    Một lý khác:

    1. Lokādhipateyyadāna: Bố thí phần nhiều lấy người đời làm trọng yếu. Như tự mình không muốn làm phước nhưng lại sợ người khác xem thường, chê bai nên mới miễn cưởng làm phước.

    2. Attādhipateyyadāna: Bố thí phần nhiều lấy mình làm trọng yếu. Như suy nghĩ rằng: "Ta là người giàu có, nếu không bố thí tài sản để giúp đỡ cho công tác từ thiện thì thật xấu hổ không xứng đáng" cho nên mới làm phước.

    3. Dhammādhipateyyadāna: Bố thí phần nhiều lấy pháp làm trọng yếu. Như quán xét rằng: "Việc bố thí là pháp mà các bậc chân nhân thường xuyên làm, ngay cả như Bồ Tát khi tạo phước Ba La Mật thì đã tạo phước thí Ba La Mật làm nền tảng trước tiên. Thậm chí cho đến chư Thinh Văn Giác của chư Phật Toàn Giác cũng thường xuyên kiến tạo bố thí giống như vậy". Khi quán xét thấy lợi ích như vậy rồi thì tìm cơ hội để kiến tạo.

    Ghi chú: Việc trình bày đến bố thí có nhiều nhóm. Nhưng trong nơi đây trình bày không đủ hết nhóm 2 chỉ dẫn chứng trình bày tóm tắc vừa đủ. Vì đã trình bày trong cẩm nang kiến tạo thiện thí cho nên không cần thiết phải dẫn chứng trình bày trong nơi đây nữa.

    *

    Trình bày 5 cách thí của bậc chân nhân cùng với quả báo

    Pañcimāni bhikkhave sappurisadānāni, katamāni pañca? Saddhāya dānaṃ deti, sakkaccaṃ dānaṃ deti, kālena dānaṃ deti, anuggahitacitto dānaṃ deti, attānañca parañca anupahacca dānaṃ deti.

    1. Saddhāya kho pana bhikkhave dānaṃ datvā yattha yattha tassa dānassa vipāko nibbattati, aḍḍho ca hoti mahaddhano mahābhago, abhirūpo ca hoti dassanīyo pāsādiko paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato.

    2. Sakkaccaṃ kho pana bhikkhave dānaṃ datvā yattha yattha tassa dānassa vipāko nibbattati, aḍḍho ca hoti mahaddhano mahābhogo, yepissa te honti puttati vā dārati vā dāsāti vā pesāti vā kammakarāti vā. Tepi sussū santi sotaṃ odahanti aññā cittaṃ upaṭṭhapenti.

    3. Kālena kho pana bhikkhave dānaṃ dātvā yattha yattha tassa dānassa vipāko nibbattati, aḍḍho ca hoti mahaddhano mahābhogo, kālāgatā cassa atthā pacurā honti.

    4. Anuggahitacitto kho pana bhikkhave dānaṃ datvā yattha yattha tassa dānassa vipāko nibbattati, aḍḍho ca hoti mahaddhano mahābhogo, uḷāresu ca pañcasu kāmaguṇesu bhogāya cittaṃ namati.

    5. Attanañca parañca anupahacca kho pana bhikkhave dānaṃ datvā yattha yattha tassa dānassa vipāko nibbattati, aḍḍho ca hoti mahaddhano mahābhogo, na cassa kutoci bhogānaṃ upaghato āgacchāti aggito vā udakato vā rājato vā corato vā appiyato vā dāyādato. Imāni kho bhikkhave pañca sappurisadānānīti (trong Tăng Chi Bộ Kinh pháp 5 chi).

    Nghĩa là: Này các tỳ kheo! 5 cách thí của bậc chân nhân là thế nào?

    1. Bố thí bằng đức tin, tin nghiệp và quả của nghiệp.

    2. Bố thí bằng sự cung kính cả cách thí lẫn vật thí trong sạch, thanh tịnh.

    3. Bố thí hợp thời.

    4. Bố thí bằng sự dứt bỏ thật sự không chấp thủ hối tiếc vật thí.

    5. Bố thí không gây ảnh hưởng tác hại đến mình và đến người.

    1- Saddhādāna: Này các tỳ kheo! Người bố thí bằng đức tin, tin nghiệp và quả của nghiệp. Quả của loại bố thí này thường sanh lên trong kiếp sau làm người giàu sang có nhiều tài sản, được đầy đủ ngũ dục thù thắng. Như sắc tướng xinh đẹp đáng ngắm nhìn,đáng ưa chuộng, màu da hồng hào.

    2- Sakkaccadāna: Này các tỳ kheo! Người bố thí bằng sự cung kính, cả cách thí lẫn vật thí thanh tịnh trong sạch. Quả của loại bố thí này sanh lên trong kiếp sau thường làm người giàu sang có nhiều tài sản, được đầy đủ ngũ dục thù thắng. Như con trai, vợ, chồng, thuộc hạ tùy tùng, người giúp việc, công nhân tuân thủ nghe theo lời không làm phật ý trong mọi công việc.

    3- Kāladāna: Này các tỳ kheo! Người bố thí hợp thời. Quả của loại bố thí này sanh lên trong kiếp sau thường làm người giàu sang có nhiều tài sản, được ngũ dục viên mãn thù thắng. Như được phát đạt thạnh lợi kể từ thời niên thiếu cho đến khi thành niên được có lợi lộc tràn trề, dư thừa.

    4- Anuggahitadāna: Này các tỳ kheo! Người bố thí bằng sự dứt bỏ thật sự không hối tiếc chấp thủ vật thí. Quả của loại bố thí này sanh lên trong đời vị lai thường làm người sang giàu dồi dào về tài sản, được viên mãn về ngũ dục. Như được thụ hưởng ngũ dục đầy đủ, sống hạnh phúc an lạc, không phải quán xuyến trông nom tài sản.

    5- Anupahaccadāna: Này các tỳ kheo! Người bố thí không gây ảnh hưởng tác hại đến mình và người khác. Quả của loại bố thí này sanh lên trong kiếp sau thường được sung túc về tài sản được đầy đủ ngũ dục thù thắng. Như vàng bạc tài sản của mình thoát khỏi 5 điều hiểm họa như lửa đốt cháy, nước cuốn trôi, vua quan tịch biên, ăn cướp chiếm đoạt, con cháu bà con quyến thuộc là người thừa tự không xứng đáng.

    Này các tỳ kheo! 5 cách bố thí này gọi là bố thí của bậc chân nhân (Sappurisadāna).

    Ghi chú: Giới của bậc chân nhân và tu tiến của bậc chân nhân cũng có 5 cách giống như vậy, chỉ khác nhau là quả báo của giới nhận được an lạc thân tâm, quả báo của tu tiến làm cho tâm kiên định không rung động đối với thế gian pháp, có trí tuệ hoàn hảo.

    *

    Nếu tóm lại thì bố thí có 4 loại

    1. Cetanādāna: Sở hữu tư câu sanh với tâm đại thiện làm nhân cho bố thí.

    2. Vatthudāna: Tứ vật dụng là vật thí.

    3. Alobhadāna: Sở hữu vô tham câu sanh với sở hữu tư làm nhân cho bố thí.

    4. Viratidāna: 3 sở hữu giới phần có phận sự xa khỏi ác bất thiện hạnh là nhân cho tất cả chúng sanh không bị sợ hãi thuộc vô uý thí cả nội phần lẫn ngoại phần.

    *

    Dẫn chứng Pāli trình bày tóm tắt cả 4 thí như sau

    1- Cetasiko dhammo dānanti? Āmantā (trong kệ bố thí của Sattamaggakathāvatthu). Sở hữu tư câu sanh với tâm đại thiện gọi là thí phải chăng? Đáp: Phải rồi!

    2- Deyyadhammo dānanti ? Āmantā (trong kệ bố thṅ của Sattamaggakathāvatthu) Vật thí gọi là thí phải chăng? Đáp: Phải rồi!

    3- Taṃ sampayutto alobhopi dānaṃ nāma (trong Suttasaṅgahāṭṭhakathā vā Mūlaṭikā). Sở hữu vô tham câu sanh với các sở hữu là nhân cho việc san xẻ gọi là bố thí.

    4- Abhayaṃ detīti āgataṭṭhāne virati dānaṃ (trong Kāthavatthu). Lời nói lên làm cho không sợ hãi gọi là vô uý thí (viratidāna).

    5- Pāṇātipātā paṭivīrato bhikkhave ariyasāvako aparimāṇānaṃ sattānaṃ abhayaṃ deti ... Idaṃ bhikkhave pathamaṃ dānaṃ mahādānaṃ (trong Abhisandasutta phẩm bố thí pháp 8 chi của Tăng Chi Bộ Kinh).

    Bậc Thánh Thinh Văn đã xa lìa hẳn sát sanh thường làm cho tất cả chúng sanh không sợ hãi không thể ước lượng được. Sự cho vô uý thí đối với tất cả các chúng sanh được gọi là điều đại thí (mahādāna) trước tiên.

    *

    Trình bày trạng thái phận sự…và pháp đối nghịch… của thiện thí

    1). Pariccāgalakkhaṇaṃ: Có sự thỏa thích dứt bỏ là trạng thái.

    2). Lobhaviddhaṃsanarasaṃ: Có sự hủy diệt tham là phận sự.

    3). Bhavavibhavasampattipaccuppaṭṭhānaṃ: Được đầy đủ vật chất trong kiếp sống và giải thoát khỏi sanh hữu là thành tựu.

    4).Saddheyyapadaṭṭhānaṃ: Có đức tin tịnh tín trong điều đáng tịnh tín là nhân cận.

    5). Paṭikkhepadhamma: Pháp bị loại trừ bởi thiện thí là tham.

    6). Anuññātadhamma: Pháp nhận được sự hỗ trợ từ thiện thí khởi sanh là vô tham.

    7). Uppādetabbadhamma: Pháp được thiện thí trợ sanh là 3 Đạo, 3 Quả thấp (ám chỉ đến mãnh lực trợ sanh ủng hộ (upathambhakasatti) của thiện thí.

    Sau cùng sẽ nêu lên lời khuyến giáo về bố thí của Ngài A xà lê Mahābuddhaghosa đã trình bày trong sớ giải Kinh Đại Phẩm (suttantamahāvaggāttakatha) rằng:

    Evaṃ nātimahantampi Puññaṃ āyatane kataṃ

    Mahāvipākaṃ hotīti Kattabbaṃ taṃ vibhāvinā

    Tức: Phước được kiến tạo đầy đủ bằng giới, định, tuệ với Tăng chơn đế và Tăng chế định. Nền tảng của việc gieo chủng tử phước này cho dù gieo chút ít chỉ bằng hạt giống bồ đề nhưng cũng nhận được quả vô lượng giống như cây đại thọ bồ đề. Chính do nhân này, các thiện nam tử, thiện nữ nhân có trí tuệ khôn khéo kết hợp với đức tin, hãy tác ý tạo phước bằng đức tin không thối chuyển.

    *

    SĪLA: TRÌ GIỚI

    TRÌ GIỚI (Sīla): Được trình bày định nghĩa như sau: "Sīlayati kāyavacīkammāni sammādahatīti: Sīlaṃ".

    "Pháp chủng nào làm cho thân nghiệp và ngữ nghiệp an trú vào thiện hạnh pháp chủng đó gọi là Trì Giới". Tức sở hữu tư làm cho thân và ngữ tiếp bước theo thiện pháp không cho bất thiện pháp sanh lên.

    Dānacetanā: Tư liên quan đến bố thí sīlacetanā tức tư liên quan đến trì giới. Nhóm này sanh lên với bậc A La Hán cũng có, nhưng nhóm tư này hiện hữu trong các tâm tố. Còn đối với tư thí, tư giới mà trình bày trong thập phước nghiệp sự, ám chỉ đến riêng biệt tư hiện hữu trong đại thiện mà thôi.

    Thích giải: "Sīla" là hiện thân của tư dẫn dắt thúc đẩy cho thân, ngữ an trú vào hành vi thiện lẫn ngăn chặn không cho các bất thiện liên quan đến thân ác hạnh, ngữ ác hạnh sanh lên. Điều này trình bày cho biết: "Sīla" có bổn phận gìn giữ thân, ngữ không cho tiến bước theo các ác hạnh sanh lên từ các bất thiện pháp. Còn việc gìn giữ ý không cho ý ác hạnh… sanh lên là chức năng đặc biệt của tu tiến.

    Một định nghĩa khác nữa"Sīlayati kusaladhamme upadhāretīti: Sīlaṃ". Pháp chủng nào bảo tồn thiện pháp như Định, Tuệ và Giải Thoát… được chu toàn, pháp chủng đó gọi là giới.

    Thích giải: Sīlacetana là gìn giữ điều học sai biệt như sát sanh… Nhóm này có thể hỗ trợ cho Định, Tuệ và Đạo, Quả sanh lên ví như mặt đất là nơi nương cho các pháp hữu mạng quyền lẫn vô mạng quyền. Nếu không có mặt đất để nương gá thì các pháp hữu mạng quyền lẫn vô mạng quyền cũng không sanh lên và phát triển được. Điều này ví dụ như thế nào thì Định, Tuệ và Đạo, Quả nương vào thiện giới mà sanh lên cũng như thế đó. Nếu không có thiện giới thì các pháp này không thể sanh lên được. Đức Thế Tôn mới thuyết giảng điều trọng yếu của giới trong việc thực hành để thoát khỏi khổ luân hồi rất gian nan khó khăn cả nội phần lẫn ngoại phần mới chứng đắc Níp Bàn được rằng:

    Sīle patiṭṭhāya naro sapañño Cittaṃ paññañca bhāvayaṃ

    Ātāpi nipako bhikkhu So imaṃ vijaṭaye jātaṃ

    Người có tâm tái tục tam nhân do tích lũy nghiệp trí tuệ (kammajapaññā) an trú trong giới làm nền tảng cho Chỉ Tịnh, Minh Sát là người tinh cần thiêu đốt các bất thiện pháp mà làm cho tâm nhiệt não; có thể làm cho si mê được khô cạn. Là người có trí tuệ bảo hộ mình cho thoát khỏi si mê hoặc là người có chú niệm cảnh nghiệp xứ (danh sắc) cho hiển lộ rõ với mình làm cho Chỉ Tịnh và Minh Sát phát triển cùng tột lên theo tuần tự.

    Người thấy sợ hãi trong khổ luân hồi và hội đủ cả 6 pháp tức giới, định, tuệ tái tục (patisandhipaññā), tuệ quán, tuệ ngăn ngừa phiền não (parihārikapaññā), chánh cần (sammappadhāna). Người đó có thể tháo gỡ được sự rối rắm của ái dục giống như tháo gỡ những cành tre già rậm rạp chằng chịt bao quanh thân cây.

    *

    Trình bày phân loại về giới

    Giới có 4 loại:

    - Giới tỳ kheo.
    - Giới tỳ kheo ni.
    - Giớisa di.
    - Giới cư sĩ.

    Trong 4 loại giới đó, thì 227 điều học trong giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa tỳ kheo (Bhikkhupāṭimokkha) gọi là giới tỳ kheo; 311 điều học trong giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa tỳ kheo ni (Bhikkhunīpāṭimokkha) gọi là giới tỳ kheo ni; 10 điều học như không sát sanh… cho đến không thọ lãnh cất giữ hoặc bảo kẻ khác thọ lãnh, cất giữ vàng bạc, châu báu, cảm xúc đến các vật ấy (jātarūparajatapaṭiggāhanā) là cuối cùng, và 75 ưng học pháp (sekkhiyasikkhāpada) nhóm này gọi là giới sa di; 5 điều học là ngũ giới của cư sĩ.

    Trong 4 loại giới đó thì giới tỳ kheo và giới tỳ kheo ni không cần phải thọ giới riêng biệt. Sau khi đã tuyên ngôn đúng theo nghi thức bên trong ranh giới sìmà, thì các giới này cũng thành tựu. Còn đối với giới sa di cũng không cần phải thọ giới riêng biệt. Sau khi đọc Tam Quy đúng theo nghi thức của người truyền Tam Quy và người thọ Tam Quy thì các giới này được thành tựu.

    Từ "Gahasatha" (cư sĩ). Nghĩa là còn quán xuyến cai quản gia đình. Như định nghĩa trình bày sau: "Gahe tiṭṭhatīti: Gahaṭṭho". Người nào còn sống tại gia, người đó gọi là cư sĩ. Riêng đối với giới cư sĩ phải thọ giới riêng biệt. Nếu thọ trì Tam Quy thì chưa gọi là người cư sĩ có giới, chỉ gọi là người có Tam Quy mà thôi.

    *

    Trình bày người trở thành hoại giới & vô tàm

    Việc trở thành người hoại giới đối với tỳ kheo, tỳ kheo ni như sau: Vị tỳ kheo, tỳ kheo ni nào khi được tụng tuyên ngôn 4 bận trong ranh giới sìmà hoàn tất rồi thì tỳ kheo, tỳ kheo ni đó được gọi là người có 227 hoặc 311 học giới. Không cần phải thọ giới riêng biệt nữa, suốt cho đến khi chưa tuyên bố từ bỏ điều học hoặc trở thành người phạm tội bất cộng trụ (pàràjika) thì có thể nói rằng: Người đó vẫn tồn tại nghiêm chỉnh trong giới tỳ kheo, tỳ kheo ni. Nhưng khi từ bỏ điều học hay trở thành người phạm tội bất cộng trụ rồi thì giới tỳ kheo hay giới tỳ kheo ni đó cũng chấm dứt.

    Do đó, vị tỳ kheo, tỳ kheo ni nếu chưa thay đổi hình tướng thành cư sĩ hoặc sa di, sa di ni vẫn còn tuyên bố mình là tỳ kheo hay tỳ kheo ni thì người đó gọi là người hoại giới.

    Lại nữa, người được gọi là tỳ kheo, tỳ kheo ni nhưng không thành tựu thọ cụ túc giới (upasampada). Như lúc đang cử hành lễ thọ cụ túc giới mà có một điều hư hỏng trong 5 điều hiện hữu như sau:

    1. Vatthuvipatti: Do upasampadāpekkha (ám chỉ người xuất gia chưa đủ 20 tuổi).

    2. Simāvipatti: Do sīmā (ranh giới hành tăng sự) hỏng.

    3. Parisavipatti: Do Chư Tăng vào cử hành lễ không đủ số lượng.

    4. Ñattivipatti: Do tụng lời trình bạch (Ñatti) không đúng.

    5. Kammavācāvipatti: Do tụng tuyên ngôn sai lệch.

    Nếu không đầy đủ mà hư hỏng 1 trong 5 điều như đã trình bày trên. Thì vị tỳ kheo hoặc tỳ kheo ni đó cho dù xuất gia 50 … 60 năm đi nữa cũng chỉ gọi là tỳ kheo hay tỳ kheo ni theo hình thức tên gọi mà thôi, chứ không thành tựu cựu túc giới theo Luật.

    * Người thuộc loại vô tàm (alajjī) đối với tỳ kheo, tỳ kheo ni. Nếu vị tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào cố tình vi phạm vào điều học khác ngoài tội bất cộng trụ như tăng tàng, ưng đối trị… cả việc chưa sám hối tội đó cho đúng theo Luật; tức nếu phạm tội tăng tàng nhưng chưa được làm cho trong sạch (vuṭṭhānakamma). Như còn đang biệt trú (parivāsa) và khiêm cung (mānatta) mà phạm tội khác nữa như ưng đối trị… mà chưa trình bày tội đó cho hiển lộ (desanākamma) với bạn đồng phạm hạnh. Thì có thể nói rằng người đó vô tàm (không hổ thẹn tội lỗi).

    Trong cả hai người này thì người phạm giới có tội nặng hơn, còn người vô tàm có tội nhẹ hơn.

    - Việc trở thành người hoại giới và vô tàm đối với sa di. Thật ra đối với sa di, nếu người truyền Tam Quy và người thọ trì Tam Quy hoàn tất hết 3 lần rồi, thì cho dù không có thọ 10 điều học như tránh xa sát sanh (pāṇātipātāveramaṇī)… đi nữa cũng coi như người thọ trì Tam Quy đó đã thành tựu sa di và viên mãn chín chắn giới sa di kể từ đó cho đến khi chưa thay đổi phẩm mạo. Hoặc chưa sai phạm 10 điều trục xuất trong Giáo Pháp cho đến lúc nào thì vẫn tồn tại trong giới phẩm sa di cho đến lúc đó. Do đó, việc trình bày 10 điều học như tránh xa sát sanh… cho đến cuối cùng là không thọ lãnh cất giữ hoặc bảo kẽ khác thọ lãnh cất giữ vàng bạc, châu báu hoặc cảm xúc đến các vật ấy. Sau khi đã thọ trì Tam Quy 3 lần rồi, chỉ để cho sa di biết trong điều mà mình nên thúc liễm ngăn ngừa tiếp theo mà thôi.

    Thích hợp như Đức Thế Tôn Ngài thuyết trong "Sikkhāpadakathā" trong Luật Tạng Bộ Đại Phẩm rằng:

    "Anujānāmi bhikkhave samaṇerānaṃ dasa sikkhāpadāni, tesu ca sāmaṇerehi sikkhituṃ pāṇātipātā veramaṇiṃ… jātarūparajatapaṭiggahanā veramaṇiṃ".

    Trong 10 điều học, điều học mà sa di phạm vào trục xuất có 5 điều: Kể từ tránh xa sát sanh cho đến cuối cùng là uống rượu và các chất say. Còn 5 điều học còn lại, kể từ tránh xa sự ăn sái giờ cho đến cuối cùng là tránh xa sự thọ lãnh cất giữ hoặc bảo kẽ khác thọ lãnh cất giữ vàng bạc, châu báu hoặc cảm xúc đến các vật ấy chỉ phạm tội hành phạt mà thôi.

    * Do đó, vị sa di nào phạm vào điều học trục xuất thì phải hoàn tục rời khỏi phẩm mạo sa di nếu như không muốn hoàn tục thì phải chịu xin Tam Quy mới lại. Nếu như phạm vào điều học hành phạt thì xin sám hối tội từ thầy tế độ hoặc thầy giáo thọ để cho mình được trong sạch tiếp tục.

    Cho nên vị sa di nào sai phạm 1 trong 10 điều học trục xuất rồi mà không chịu hoàn tục rời khỏi phẩm mạo sa di, không chịu xin Tam Quy mới lại thì có thể nói rằng vị sa di đó là vị hoại giới. Còn nếu như vị sa di nào sai phạm vào 1 trong 10 điều học hành phạt, nhưng không chịu sám hối tội từ thầy tế độ hoặc thầy giáo thọ để cho mình được trong sạch, thì có thể nói rằng vị sa di đó là vị vô tàm.

    *

    Mười điều trục xuất

    1. Paṇātipātā hoti: Sa di phạm vào sát sanh.

    2. Adinnādāyī hoti: Sa di phạm vào trộm cắp.

    3. Abrahmacārī hoti: Sa di phạm vào phi phạm hạnh.

    4. Musāvadī hoti: Sa di phạm vào nói dối.

    5. Surāmerayamajjapāyī hoti: Sa di phạm vào uống rượu và các chất say.

    6. Buddhassa avaṇṇaṃ bhāsati: Sa di phạm vào hủy báng Phật.

    7. Dhammassa avaṇṇaṃ bhāsati: Sa di phạm vào hủy báng Pháp.

    8. Saṅghassa avaṇṇaṃ bhāsati: Sa di phạm vào hủy báng Tăng.

    9. Micchādiṭṭhiko hoti: Sa di là người tà kiến như thường kiến…

    10. Bhikkhunīdūsako hoti: Sa di phạm vào dâm vải tỳ kheo ni.

    Nếu vị sa di nào phạm vào 1 trong 10 điều trục xuất này thì hoại đi giới phẩm sa di phải hoàn tục. Nếu như không muốn hoàn tục thì đối với việc phạm tội vào 1 trong 9 điều nào trục xuất (ngoại trừ tà kiến) mà vị sa di đó thú tội sai phạm của mình làm cho thầy tế độ hoặc thầy giáo thọ. Cùng nói lên lời hứa của mình để ngăn ngừa phòng hộ không cho tái phạm trong điều trục xuất đó nữa, rồi xin thọ Tam Quy mới lại. Như vậy sẽ trở thành vị sa di có giới phẩm đầy đủ như lúc chưa phạm tội.

    Riêng đối với điều trục xuất thứ 9, nếu vị sa di nào đã phạm thì phải hoàn tục rời khỏi phẩm mạo sa di. Hoặc nếu không muốn hoàn tục thì phải chỉnh đốn lại tà kiến để trở thành người có chánh kiến trước, rồi đi đến trình bày tri kiến chín chắn của mình với Chư Tăng. Cùng với lời thú nhận rằng mình đã có tà kiến, hiện giờ đã chỉnh đốn lại tri kiến như vầy, kể từ đây trở đi sẽ tinh cần để không trở thành người tà kiến nữa.

    Khi Chư Tăng cho sám hối tội rồi, thì phải xin Tam Quy mới lại. Như vậy, vị sa di đó mới trở lại thành vị sa di chơn chánh viên mãn được.

    *

    Mười điều hành phạt

    1. Vikālabhojano hoti: Sa di phạm vào thọ dụng vật thực phi thời.

    2. Naccagītavāditavisūkadassano hoti: Sa di phạm vào vui thích, múa hát nghe đờn kèn.

    3.Mālāgandhavilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsa-no hoti: Sa di phạm vào vui thích trang điểm thân thể bằng các tràng hoa hoặc vật thơm.

    4. Uccāsayanamahāsayano hoti: Sa di phạm vào vui thích nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

    5. Jātarūparajatapaṭiggahano hoti: Sa di phạm vào vui thích thọ lãnh vàng bạc hoặc bảo kẽ khác thay thế thọ lãnh vàng bạc.

    6. Bhikkhūnaṃ alābhāya parisakkati: Sa di phạm vào cố ý làm cho tỳ kheo mất lợi lộc.

    7. Bhikkhūnaṃ avāsāya parisakkati: Sa di phạm vào cố ý làm cho tỳ kheo không có chổ ở.

    8. Bhikkhūnaṃ anatthāya parisakkati: Sa di phạm vào cố ý làm cho tỳ kheo mất điều hữu ích.

    9. Bhikkhūnaṃ akkasati paribhāsati: Sa di phạm vào mắng chửi và kích bác tỳ kheo.

    10. Bhikkhū bhikkhūhi bhedeti: Sa di phạm vào đâm thọc làm cho tỳ kheo bất hòa cùng nhau.

    Dù vị sa di nào đi nữa, khi sai phạm thì phải thọ nhận hành phạt từ thầy tế độ hoặc thầy giáo thọ tùy theo mức độ sai phạm.

    Vẫn còn nhiều điều học hành phạt khác nữa chẳng hạn như 75 ưng học pháp và 14 pháp hành các điều này giống nhau. Nếu sa di không chịu gìn giữ và hành theo 1 điều nào trong những điều học và phận sự như đã trình bày trên thì phải nhận tội hành phạt, nếu không nhận tội thì được gọi là người vô tàm.

    * Sự trở thành người hoại giới và vô tàm đối với cư sĩ có ngũ giới như tránh xa sự sát sanh… cho đến cuối cùng là tránh xa sự dễ duôi uống rượu và các chất say. Các điều học này là giới thường nhiên phổ thông với cư sĩ không phân biệt dòng giống, giai cấp, màu da, tôn giáo nào hết.

    Do đó, nếu người nào thu thúc không sai phạm thì người đó được gọi là an trú trong giới cư sĩ. Nếu người nào không gìn giữ phạm vào 1 trong 5 điều hoặc cả 5 điều thì người đó có thể nói là người hoại giới.

    * Đối với cư sĩ vô tàm tức người cư sĩ nào thích nói đâm thọc, nói thô tục, nói vô ích và thích suy tính tham muốn dòm ngó đến tài sản của người khác (tham ác). Suy tính não hại người khác (sân ác) và là người không thực hành đúng phận sự của mình theo lời giáo hóa của Đức Thế Tôn đã thuyết trong kinh giáo giới Thi Ca La Việt (Siṅgālasutta) của Suttantapathikavagga.

    Như không làm theo bổn phận giữa cha mẹ đối với con, chồng đối với vợ, thầy đối với trò, chủ đối với tớ, bạn đối với bạn và giữa cư sĩ đối với bậc xuất gia.

    Cho dù người cư sĩ đó là nam hay nữ thuộc dòng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo nào đi nữa, khi đã làm như vậy thì có thể nói rằng người đó vô tàm.

    Nếu người cư sĩ nào không thích nói đâm thọc, nói thô tục, nói vô ích, không suy tính việc tham ác, sân ác. Cũng như hoan hỷ hành theo bổn phận giữa cha mẹ đối với con, giữa chồng đối với vợ, giữa thầy đối với trò, giữa chủ đối với tớ, giữa bạn đối với bạn, giữa cư sĩ đối với bậc xuất gia. Thì người cư sĩ đó gọi là người biết hỗ thẹn tội lỗi (có tàm).

    *

    Thích giải đặc biệt về sự thọ trì ngũ giới

    Việc thọ trì 5 giới có hai cách

    1- Thọ trì điều học chung với nhau.

    2- Thọ trì điều học theo riêng biệt từng điều.

    Việc thọ trì 5 điều học chung nhau như tuyên bố lên sự thọ trì rằng: "Pañcasikkhāpadaṃ samādiyāmi" hoặc "Pañcasīlaṃ samādiyāmi". Nghĩa là tôi xin thọ trì cả 5 điều học như tránh xa sự sát sanh… cho đến cuối cùng tránh xa sự dễ duôi uống rượu và các chất say".

    Việc thọ trì 5 điều học theo riêng biệt từng điều như thọ trì rằng:

    1. Pāṇātipātā veramaṇīsikkhāpadaṃ samādiyāmi (tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh)…

    5. Surāmerayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇīsikkhāpadaṃ samādiyāmi (tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dễ duôi uống rượu và các chất say).

    Ngay cả việc thọ trì bát quan trai giới cũng như vậy, nếu thọ trì 8 điều học chung nhau thì thọ trì như vầy: "Uposathasīlaṃ samādiyāmi" hoặc "Atthaṅgasīlaṃ samādiyāmi"(tôi xin thọ trì bát quan trai giới).

    Việc thọ trì 8 điều học theo riêng biệt từng điều như thọ trì rằng:

    1. Pāṇātipānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi (tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh)

    2. ...

    8. Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi (tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp).

    Việc thọ trì cả hai loại ngũ giới và bát quan trai giới như đã trình bày trên. Nếu người thọ trì điều học chung với nhau mà phạm vào chỉ một điều học nào thì coi như việc việc giữ gìn ngũ giới hoặc bát quan trai giới của người đó đồng loạt đứt hết, phải thọ trì lại tất cả. Còn người thọ trì điều học theo riêng biệt từng điều, nếu phạm vào điều học nào thì coi như đứt riêng biệt điều đó. Còn điều khác vẫn có thể tồn tại như thường chỉ thọ trì lại riêng điều bị đứt mà thôi.

    Lại nữa, việc thọ trì ngũ giới và bát quan trai giới này người thọ trì ấn định thời gian trong tâm. Chỉ thọ trì một lần thôi thì việc thọ trì của người này cũng được gọi là tồn tại suốt thời gian ấn định. Như người thọ trì 5 giới hoặc 8 giới ấn định thời gian 3 tháng, 1 tháng, nửa tháng, 1 tuần hoặc 1 ngày 1 đêm, thậm chí nửa ngày đi nữa thì việc thọ trì giới đó sẽ hoàn toàn tồn tại suốt thời gian ấn định. Khi hết thời gian ấn định rồi thì việc thọ trì giới đó cũng tự chấm dứt luôn.

    Ngũ giới là giới thường nhiên của cư sĩ. Vì vậy cho dù người thọ trì cũng như không thọ trì cũng phải gìn giữ như thông lệ để bản thân mình là người có giới. Nếu như có người đến nói rằng: "Tôi không thọ giới cho nên không giữ giới thì không có tội". Lời nói như vậy chỉ để chứng tỏ cho người khác biết rằng mình không hiểu gì về ngũ giới của cư sĩ cả, mà ngược lại còn tự thể hiện mình là người ác giới (dusìla).

    Đối với người thọ trì ngũ giới rồi giữ gìn thì được nhiều lợi ích khác nữa. Như ngoài việc thọ trì ngũ giới ra vẫn còn nhận được nhiều thiện pháp khác nữa. Do nhân này, hàng Phật tử mới vâng giữ thọ trì ngũ giới mãi cho đến bây giờ.

    *

    Thích giải đặc biệt về bát quan trai giới và người thọ trì gìn giữ

    Uposathasīla tức bát quan trai giới là thường giới của cận sự nam, cận sự nữ (Paṇḍaraṇgapabbajita: Người xuất gia đắp vải trắng) và Tāpasa, tāpasinī (nam đạo sĩ, nữ đạo sĩ). Do đó, cận sự nam (upāsaka), cận sự nữ (upāsika) và đạo sĩ. Những người này bắt buộc phải giữ cho tròn vẹn. Trong việc thọ trì giới chỉ thọ một lần thôi cũng tồn tại được suốt thời gian còn đắp vải trắng. Nếu cận sự nam, cận sự nữ, đạo sĩ nào không giữ trọn vẹn chỉ giữ 5 giới hoặc giữ trì mạng giới (ājīvaṭṭhamakasīla) thì không xứng đáng với phẩm vị của cận sự nam, cận sự nữ, đạo sĩ là người xuất gia đắp vải trắng mà nên thay đổi tướng mạo thành cư sĩ. Nếu không thay đổi tướng mạo thành cư sĩ thì gọi cận sự nam, cận sự nữ, đạo sĩ đó là người hoại giới. Bát quan trai giới này đối với cư sĩ không phải là thường giới cho nên nếu cư sĩ thọ trì thì được lợi ích đặc thù hơn hoặc nếu không thọ trì cũng không có tội chi cả.

    Trình bày giới đặc biệt của cư sĩ

    Việc giữ gìn giới của cư sĩ ngoài 5 giới và 8 giới ra còn giới thọ trì khác nữa như:

    1. Ājīvaṭṭhamakasīla (trì mạng giới): Tránh xa 3 thân ác hạnh, 4 ngữ ác hạnh và tà mạng.

    2. Navaṇgasīla (cửu phần giới): Bát quan trai giới chỉ thêm "Yathā balaṃ mettā mahagatena cetasā sabbāvantaṃ lokaṃ pharitvā viharāmi" "Tôi xin nguyện rãi từ tâm đến cho tất cả chúng sanh (theo từng nhóm riêng biệt)".

    3. Dasaṇgasīla (thập giới): 10 điều học mà sa di thọ trì.

    *

    Trình bày tên gọi của trì mạng giới & sự khác biệt giữa 5 giới và trì mạng giới

    Trì mạng giới (ājīvaṭṭhamakasīla) trong sớ giải Thanh Tịnh Đạo Ngài gọi là Ādibrahmacariyakasīla là giới khởi đầu con đường phạm hạnh, ám chỉ trì mạng giới là nền tảng làm cho thành tựu Đạo Quả.

    Lại nữa, cư sĩ thọ trì Trì Mạng Giới hoặc không thọ trì nếu phạm vào điều học nào thì vẫn có tội giống như phạm vào ngũ giới. Trong cả 2 loại giới này, nếu người nào thọ trì ngũ giới thường xuyên thì người đó được gọi là bậc chân nhân thông thường. Nếu thọ trì Trì Mạng Giới thường xuyên thì người đó được gọi là bậc chân nhân đặc thù.

    *

    Phân tích thường giới & phi thường giới

    - Thường giới (Niccasīla) ám chỉ giới nào khi hành lễ xong rồi thì thành tựu đầy đủ mà không phải thường xuyên thọ trì riêng biệt lại nữa. Và người đó luôn luôn gìn giữ giới này nếu không thì có tội. Giới đó gọi là thường giới.

    - Phi thường giới (Aniccasīla) ám chỉ giới nào mà không giữ thì không có tội. Nếu như muốn giữ thì phải xin thọ trì giới đó trước. Giới đó gọi là phi thường giới.

    Thường giới 227 và 311 điều học mà Đức Thế Tôn Ngài thuyết giảng trong giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa tỳ kheo (bhikkhupatimokkha) và giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa tỳ kheo ni (bhikkhunīpatimokkha) là thường giới của tỳ kheo, tỳ kheo ni. Thập giới và 75 Ưng Học Pháp là thường giới của sa di. Bát quan trai giới là thường giới của paṇḍaraṇgapabbajita (cận sự nam, cận sự nữ đắp vải trắng, hoặc còn gọi là tu sĩ).

    Phi thường giới là hạnh thọ đầu đà, trong 13 pháp đầu đà này là phi thường giới của tỳ kheo, tỳ kheo ni, sa di.

    Hạnh thọ trì một pháp đầu đà nào và thập giới là phi thường giới của tu sĩ mặc vải trắng paṇḍaraṇgapabbajita và các đạo sĩ.

    Bát quan trai giới, cửu phần giới, thập giới và thọ trì đầu đà hạnh nhất tọa thực hoặc hạnh khất thực. Các pháp này là phi thường giới của cư sĩ .

    *

    Phân tích giới theo Tác trì giới & Ngăn trì giới

    - Tác trì giới (carittasīla) ám chỉ không hành trì thì không có tội nếu hành trì thì có nhiều lợi ích, tức phi thường giới.

    - Ngăn trừ giới (vārittasīla) ám chỉ giới đó phải hành trì thường xuyên nếu không hành trì thì có tội, tức thường giới.

    *

    Phương pháp thọ trì việc niệm hồng danh Phật, tam quy & điều học

    Cách thọ trì 5 giới và 8 giới mọi người đã hiểu rõ vì vậy không cần phải trình bày lại nữa. Đối với cách thọ trì Trì Mạng Giới (ājīvaṭṭhamakasīla), Cửu Phần Giới, Thập giới được trình bày như sau:

    Trì mạng giới: (Ājīvatṭhamakasīla).

    1. Mayaṃ bhante tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīla dhammaṃ yācāmi anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha me bhante, dutiyampi... tatiyampi... (Phần người thọ trì quy giới đọc).

    2. Namo tassa bhagavato… (3 lần).

    Con đem hết lòng thành kính làm lễ Đức Bhagavà đó… (3 lần).

    3. Buddhaṃ saranaṃ gacchāmi…, dutiyampi…, tatiyampi…

    Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật…, lần thứ nhì…, lần thứ ba…

    4. 1* Pānātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

    Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh.

    2* Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

    Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp.

    3* Kāmesumicchācāra veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

    Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà dâm.

    4* Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

    Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối.

    5* Pisuṇavācā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

    Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói đâm thọc.

    6* Pharusavācā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

    Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói thô tục.

    7* Samphappalāpā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

    Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói vô ích.

    8* Micchājīvā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

    Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà mạng.

    (Vị truyền quy giới đọc trước và người thọ trì quy

    giới đọc theo sau mỗi điều)

    Kết thúc: Tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampadetha sīlena sugatiṃ yanti sīlena bhogasampadā sīlena nibbutiṃ yanti tasmā sīlaṃ visodhāye

    (Phần vị truyền quy giới đọc)

    Cữu phần giới: (Navaṇguposathasīla).

    1. Mayaṃ bhante tisaraṇena saha navaṇgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāmi anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha me bhante, dutiyampi…, tatiyampi…,

    (Phần người thọ trì quy giới đọc)

    2. Namo… (3 lần).

    Con đem hết lòng thành kính… (3 lần).

    3. Buddhaṃ saranaṃ gacchāmi

    Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật…

    41* Paṇātipātā…

    Con xin vâng giữ điều học là… sát sanh.

    2* Adinnādānā

    Con xin vâng giữ điều học là… trộm cắp.

    3* Abrahmacariya

    Con xin vâng giữ điều học là… hành dâm.

    4* Musāvādā…

    Con xin vâng giữ điều học là… nói dối.

    5* Surāmerayamajjapamādaṭṭhānā...

    Con xin vâng giữ điều học là… uống rượu và các chất say.

    6* Vikālabhojanā…

    Con xin vâng giữ điều học là… sự ăn sái giờ .

    7* Naccagīta… mālāgandha…

    Con xin vâng giữ điều học là… đeo tràng hoa.

    8* Uccāsayanamahāsayanā…

    Con xin vâng giữ điều học là… nơi quá cao và xinh đẹp.

    9* Yathā balaṃ mettā sahagatena cetasā sabbāvantaṃ lokaṃ pharitvā viharāmi.

    Tuỳ theo khả năng, con xin rãi lòng từ mẫn đến toàn thế gian.

    Hoặc là: Mettā sahagatena cetasā sabbapaṇabhūtesu pharitvā viharaṇaṃ samādiyami.

    Con xin thọ trì pháp phạm trú từ mẫn đến tất cả chúng sanh.

    (Vị truyền quy giới đọc trước và người thọ trì quy

    giới đọc theo sau mỗi điều)

    Kết thúcTisaraṇena saha navaṇgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampadetha sīlena sugatiṃ yanti sīlena bhogasampadā sīlena nibbutiṃ yanti tasmā sīlaṃ visodhaye.

    (Phần vị truyền quy giới đọc)

    Thập giới: (Dasaṇgasīla).

    1. Mayaṃ bhante tisaranena saha dasagahatthasīlaṃ dhammaṃ yācāmi anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha me bhante, dutiyampi… tatiyampi…

    (Phần người thọ trì quy giới đọc)

    2. Namo… (3 lần).

    3. Buddhaṃ saranaṃ gacchāmi...

    4. 1* Paṇā…

    2* Adinnā…

    3* Abrahma…

    4* Musāvādā…

    5* Surāmerayamajja…

    6* Vikālabhojanā…

    7* Naccagītavāditavisūkadassanā…

    Con xin vâng giữ điều học làcố ý tránh xa sự múa hát, thổi kèn đờn, xem múa hát, nghe đờn kèn.

    8* Mālāgandhavilepana…

    Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trang điểm thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa.

    9* Uccāsayana…

    Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

    10* Jātarūparajatapaṭiggahanā…

    Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự thọ lãnh cất giữ hoặc bảo kẽ khác thọ lãnh cất giữ vàng bạc, châu báu hay cảm xúc đến các vật ấy.

    (Vị truyền quy giới đọc trước, người thọ quy

    giới đọc theo sau mỗi điều)

    Kết thúcTisaraṇena saha dasagahaṭṭhasīlaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampādetha sīlena sugatiṃ sīlena bhogasampadā sīlena nibbutiṃ yanti tasmā sīlaṃ visodhāye.

    (Phần vị truyền quy giới đọc)

    Ghi chú: Vị truyền quy giới nói rằng: "Yamahaṃ vadāmitaṃ vadetha". " Sau khi ta đọc lời nào, người đọc theo lời đó".

    Người thọ trì nói rằng: "Āma bhante". "Dạ, xin vâng".

    Và vị truyền quy giới nói rằng: "Tisaraṇagahanaṃ paripuṇṇaṃ". "Cách thọ phép Tam Quy đầy đủ chỉ có bấy nhiêu".

    Người thọ giới nói rằng: "Āma bhante" " Dạ, xin vâng".

    Các lời nói này là lời nói của các vị A xà lê tiền bối dùng để tôn kính được truyền thừa tiếp nối cho đến bây giờ. Vì vậy, không nên bỏ đi các điều tốt đẹp, đúng đắn này.

    Trình bày dẫn chứng việc cư sĩ thọ trì thập giới

    1. Niccasīlavasena pañcasikkhāpadāni, sati vā ussāhe dasa, uposathaṇgavasena aṭṭhāti idaṃ gahaṭṭhasīlaṃ (trong sớ giải Thanh Tịnh Đạo).

    2. Dasāti sāmaṇerehi rakkhitabbasīlamāha (trong Hậu sớ giải Thanh Tịnh Đạo).

    3. Sikkhāti upāsaka upāsikāhi sikkhitabbasikkhā, sā pi pañcasīladasasīlavasena vaṭṭati… (trong sḷ giải Sammohavinodanī).

    4. Sīlavantoti upāsakatte patiṭṭhāya pañcahi dasahi sīlehi samannāgato (trong sḷ giải Sagāthāvaggasaṃyutta).

    5. Gihinopi pañcasīlaṃ dasasīlaṃ paccavekkhantassa (trong sớ giải Sammohavinodanī).

    6. Saraṇagamane kiñci niveseti tathāgato, kiñci pañcasu sīlesu, sīle dasavidhe param… (trong sớ giải Chánh giác Tông).

    Dịch nghĩa theo nội dung tuần tự sau đây:

    1- Cả 5 điều học là nói đến thường giới, 10 điều học cũng như 8 điều học (bát quan trai giới) nếu có khả năng thì thọ trì cũng được. 5 giới, 8 giới,10 giới như đã trình bày trên gọi là cư sĩ giới.

    2- Từ "Dasasīla" là thập giới mà sa di đang thọ trì.

    3- Từ "Sikkhā" là điều học mà cận sự nam, cận sự nữ nên thọ trì gìn giữ không trở ngại như 5 giới, 10 giới.

    4- Người an trú trong phẩm hạnh cận sự nam, cận sự nữ bởi đầy đủ 5 giới, 10 giới nên gọi là người có giới (Sìlavanta).

    5- Cư sĩ là người thực nghiệm 5 giới và 10 giới mà mình đã thọ trì.

    6- Đức Thế Tôn Ngài tế độ và khuyến giáo cho thiện nam, tín nữ 1 số người an trú vào Tam Quy, 1 số người an trú vào ngũ giới và 1 số người an trú vào thập giới.

    *

    Trình bày trạng thái - phận sự - pháp đối nghịch …của thiện giới

    1. Paṭiṭṭhāpanalakkhaṇaṃ: Trạng thái làm nền tảng cho các thiện pháp.

    2. Dusisīlayaviddhaṃsanarasaṃ: Phận sự hủy diệt không cho trở thành người ác giới.

    3. Soceyyapaccupaṭṭhānaṃ: Thành tựu thân tâm được thanh tịnh.

    4. Hiriottappapadaṭṭhānam: Nhân cận: Tàm, quý.

    5. Paṭikkhepadhamma: Pháp bị đoạn trừ bởi thiện giới là sân liên quan đến não hại.

    6. Anuññatadhamma: Pháp được thiện giới hỗ trợ cho sanh lên là vô sân ly não hại.

    7. Uppādetabbadhamma: Pháp được thiện giới trợ sanh là 3 Đạo và 3 Quả thấp (ám chỉ đến mãnh lực trợ sanh của thiện giới).

    Thích hợp như Ngài A xà lê Buddhaghosa đã trình bày trong sớ giải Khandhavaggasaṃyutta rằng: "Dānasīlupanissayā hi tayo magge ca phalāni ca pāpenti, bhāvanupanissayo arahattaṃ pāpeti".

    "Đại thiện bố thí, trì giới là cận y cho 3 Đạo và 3 Quả thấp. Đại thiện tu tiến là cận y cho A La Hán Đạo, A La Hán Quả".

    *

    BHĀVANĀ: TU TIẾN

    TU TIẾN (Bhāvanā): Được trình bày định nghĩa như sau: "Kusaladhamme bhāveti uppādeti vaḍḍhetīti: Bhāvanà". Pháp chủng nào làm cho thiện pháp ưu việt sanh lên lần đầu tiên rồi làm cho phát triển lên pháp chủng đó gọi là tu tiến.

    Tức tâm đại thiện liên quan đến việc tu tiến Chỉ Tịnh và Minh Sát trong lúc còn là chuẩn bị tu tiến (parikammabhāvanā) và cận hành tu tiến (upacārabhāvanā).

    Từ "Bhāvanā" gồm có ngữ căn + tiếp vĩ ngữ + biến cách.

    Gom cả 3 lại với nhau thì ngữ căn là Bhù + tiếp vĩ ngữ là Ne + Yu + Ā, biến cách là Si (Bhū + Ne + Yu + Ā + Si).

    Bhù biến cách thành Bhāva, bỏ Si ra thành (Bhāva + Ana + Ā) gom lại thành Bhāvanā.

    Trong định nghĩa này phân ra thành 2 giai đoạn:

    1. Kusaladhamme bhāveti uppādeti: Làm cho thiện pháp ưu việt sanh lên lần đầu tiên.

    2. Kusaladhamme bhāveti vaḍḍheti: Làm cho thiện pháp ưu việt sanh lên phát triển nhiều gấp đôi .

    Giai đoạn thứ nhất ám chỉ đến tâm thiện sanh lên lần đầu tiên của việc tu tiến. Giai đoạn thứ hai ám chỉ đến tâm đại thiện sanh lên nối tiếp theo sau việc tu tiến mà chưa đạt đến kiên cố định.

    Lại nữa, từ "Bhāvanā" trong thập phước nghiệp sự Ngài đang trình bày đến vấn đề đại thiện cho nên chi pháp duy nhất là tâm đại thiện. Còn từ "Bhāvanā" trong nghiệp xứ yếu hiệp (Kammaṭhānasaṇgaha) chương 9 Ngài Giáo Thọ Sư trình bày đến vấn đề Chỉ Tịnh và Minh Sát cho nên chi pháp là tất cả thiện Hiệp Thế và Siêu Thế tùy theo trường hợp. Do đó, Ngài A xà lê Ṭīkā đề cập đến việc học và dạy cùng nghiệm suy trắc lượng các học pháp sai biệt cũng như việc học và dạy kiến thức sai biệt theo thế gian mà không có tội. Các việc này đều là tu tiến thuộc phước nghiệp sự cả.

    *

    Trình bày trạng thái - phận sự… & pháp đối nghịch của thiện tu tiến

    1. Kusalavaḍḍhāpanalakkhaṇā: Trạng thái: Làm cho thiện pháp phát triển lên.

    2. Akusalapahānarasā: Phận sự: Diệt trừ bất thiện.

    3. Sattācārokkamanapaccuppaṭṭhānā: Thành tựu: Chứng đắc bằng phương pháp niệm danh sắc.

    4. Yonisomanasikārapadaṭṭhāna: Nhân cận: Khéo tác ý vào cảnh do mãnh lực của nhân thích hợp.

    5. Paṭikkhepadhamma: Pháp bị triệt tiêu bởi tu tiến là si mê.

    6. Anuññatadhamma: Pháp được thiện tu tiến hỗ trợ cho sanh lên là vô si.

    7- Uppādetabbadhamma: Pháp được thiện tu tiến trợ sanh là A La Hán Đạo, A La Hán Quả (nói theo lý đặc thù).

    *

    APACĀYANA: CUNG KỈNH

    CUNG KỈNH (Apacāyana): Được trình bày định nghĩa như sau: "Apacāyanti etenāti: Apacāyanaṃ". "Người lễ độ kính trọng bằng tư thiện nào thì tư thiện đó làm nhân cho sự lễ độ kính trọng đó gọi là Cung Kỉnh.

    Thích giải: Khi gặp cha, mẹ, ông bà nội, ngoại, thầy tổ, tỳ kheo, sa di thì chấp tay lên xá chào tôn kính hoặc đảnh lễ, cúi đầu quỳ gối. Hoặc đi đến tiếp rước bằng cách phục vụ mang đồ đạc cho các vị đó bằng tâm trong sạch không mưu cầu lợi lộc, danh tiếng, trọng vọng. Thì các việc này hoàn toàn là cung kỉnh cả. Nếu như mưu cầu lợi lộc, danh tiếng, trọng vọng, thì việc làm đó không gọi là cung kỉnh thật sự mà chỉ cung kỉnh pha trộn gian manh xảo trá.

    Cung kỉnh có 2 loại:

    1. Cung kỉnh thông thường: Biểu lộ cử chỉ lễ độ kính trọng với cha, mẹ, ông bà nội, ngoại, thầy tổ bởi nhận thức rằng: "Ta phải có bổn phận kính trọng lễ độ đối với các vị này vì các vị này là quyến thuộc, bậc trưởng thượng và là thầy tổ của ta". Như vậy được gọi là cung kỉnh thông thường.

    2. Cung kỉnh đặc biệt: Biểu lộ cử chỉ lễ độ cung kính với Tam Bảo, nhận thức được ân đức như Ưng Cúng… bằng mãnh lực đại thiện câu sanh với đức tin, trí tuệ rồi tuyên bố rằng: "Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi" "Con xin đem hết lòng thành kình xin quy y Phật…". Như vậy được gọi là cung kỉnh đặc biệt.

    Có 3 hạng người nên lễ độ cung kính:

    1- Bậc thượng đức (Guṇavuḍhipuggala): Bậc trưởng thượng do oai lực của Giới Đức, Định Đức, Tuệ Đức.

    2- Bậc cao niên (Vayavuḍhipuggala): Bậc trưởng thượng do oai lực tuổi thọ.

    3- Bậc thượng sanh (Jàtivuđhipuggala): Bậc trưởng thượng do quyền uy của dòng tộc.

    Trong 3 bậc trưởng thượng này thì sự lễ độ cung kính đối với bậc thượng đức và bậc cao niên mới là cung kính thật sự. Còn đối với cung kỉnh bậc thượng sanh nếu hành động do đổng lực của tâm tham, sân, si thì không phải là thiện pháp. Nếu hành động do động lực của tâm đại thiện thì cung kỉnh do phụng mệnh chấp hành theo phong tục lễ nghi chung mà thôi.

    Cả 3 bậc trưởng thượng này thì một số vị đầy đủ cả 3 bậc như bậc Chánh Đẳng Giác… một số vị chỉ có 2 bậc là bậc thượng đức và bậc cao niên như chư Thánh Tăng trưởng lão mà dòng tộc tầm thường. Hoặc bậc thượng đức và bậc thượng sanh như Ngài Ràhula… Hoặc bậc cao niên và bậc thượng sanh như đức vua Thiện Giác (Suppabuddha)… Một số vị trưởng lão chỉ được 1 trong 3 loại đó thôi.

    Lại nữa, bậc thượng đức là bậc có Giới, Định, Tuệ nếu diện kiến với bậc cao niên là người có tuổi thọ hơn mình hoặc bậc thượng sanh là người có dòng tộc cao sang hay địa vị cao hơn mình 1 thứ nào hoặc cả 2 thì không nên tôn kính đảnh lễ, mà chỉ chào hỏi cũng được. Cho dù người đó là cha mẹ, ông bà nội, ngoại, thầy tổ đi nữa. Nếu các vị đó là người tà kiến như vô hữu kiến… sở hành đê tiện hạ liệt thì không cần thiết phải tôn kính đảnh lễ, họa hoằng lắm chỉ chào hỏi mà thôi.

    Sự việc như vậy, vì các bậc thượng đức là bậc có phận sự phải cung kính Giới, Định, Tuệ hiện hữu trong cơ tánh của mình bởi ân đức Pháp cao tột tối thượng hơn Ngài. Vì vậy, nếu Ngài bằng lòng chấp thuận theo sự đãnh lễ đó thì Ngài sẽ mang tội cả kiếp này lẫn kiếp sau bởi quy luật diễn tiến của pháp thường nhiên.

    Điều này được hiển lộ rõ ràng trong câu chuyện Candakumāra rằng: Trong lúc Bồ Tát gặp vua cha ngoài quốc độ do bị dân chúng trục xuất, Bồ Tát cũng không đảnh lễ chi cả mà chỉ xá chào, cùng nói lên lời rằng: "Ciraṃ jīvatu". "Xin cho phụ vương được trường thọ". Chỉ bấy nhiêu đó thôi.

    Kệ ngôn trình bày quả báo của sự cung kỉnh

    Ye vuddhamapacāyanti Narādhammassa kovidā

    Diṭṭhe dhamme ca pāsaṃsā Samparāye ca sugatiṃ

    - (Trong kinh Pāṭhajātaka).

    Nghĩa là: Người nào có sự hiểu biết khôn khéo thường cung kỉnh bậc thượng đức, cao niên. Người đó khi còn sanh tiền trong kiếp này đáng được tán thán, khi mệnh chung khỏi thế gian này được sanh vào nhàn cảnh.

    Abhivādanasīlissa Niccaṃ vuḍḍhāpacāyino

    Cattāro dhammā vaḍḍhanti Āyu vaṇṇo sukhaṃ balaṃ

    - (Trong kinh Āṭānātiya).

    Nghĩa là: Người nào đảnh lễ Tam Bảo, cha mẹ, thầy tổ và cung kỉnh bậc thượng đức, bậc cao niên người đó thường được tăng trưởng 4 ân đức Pháp kiết tường như: Trường thọ, màu da sắc tướng xinh đẹp, danh tiếng địa vị, an nhàn thân tâm, có thân thể khoẻ mạnh và trí tuệ.

    *

    VEYYĀVACCA: PHỤC VỤ

    PHỤC VỤ (veyyāvacca): Được trình bày định nghĩa như sau: "Visesena āvaranti ussakkaṃ āpajjantīti: Byāvaṭā". "Byāvaṭassa kammaṃ: Veyyāvaccaṃ". "Người nào chuyên cần quan tâm chăm nom được gọi là phục vụ tận tụy (byāvatā) tức người sắp xếp điều hành các công việc".

    Công việc của người quan tâm chăm nom gọi là phục vụ, bao gồm sự giúp đỡ trong công việc liên quan đến việc học, hành (pháp), bố thí, đau yếu, trùng tu, quét dọn sạch sẽ chùa, tịnh xá, nơi thờ cúng.

    Định nghĩa này là trình bày theo quan điểm nhân sinh (Puggalādhiṭṭhāna). Nhưng nếu trình bày theo quan điểm pháp nghĩa (Dhammādiṭṭhāna) thì như sau:

    "Taṃ taṃ kiccakaraṇe byāvaṭassa bhāvo: Veyyāvaccaṃ" "Pháp nào làm nhân cho người quan tâm chăm sóc trong mọi công việc gọi là phục vụ". Tức tư câu sanh với tâm đại thiện hỗ trợ cho người chuyên cần quan tâm chăm nom trong mọi công việc.

    Lại nữa, sự giúp đỡ làm các công việc vô tội cho cha mẹ, thầy tổ, bà con quyến thuộc, bạn hữu, đoàn thể gọi là phục vụ. Như con cái giúp đỡ cha mẹ trông nom của cải tài sản cho đến thay thế cha mẹ coi sóc việc nhà. Dù đó là việc làm theo thế gian nhưng cũng được liệt vào thiện phục vụ cả.

    *

    PATTIDĀNA: HỒI HƯỚNG PHƯỚC

    HỒI HƯỚNG PHƯỚC (Pattidāna): Được trình bày định nghĩa như sau: "Pattabbāti: Patti". "Pattiyā dānaṃ: Pattidānaṃ". "Pháp chủng nào mà người đã kiến tạo được, pháp chủng đó gọi là phước báu (patti).

    Tức bố thí, trì giới, tu tiến mà mình đã kiến tạo rồi cho phước của mình đến người khác gọi là Hồi Hướng Phước".

    Như hồi hướng phước đến cho cha mẹ, thầy tổ, bà con quyến thuộc suốt cho đến những chúng sanh đã quá vãng. Định nghĩa này là trình bày theo quan điểm nhân sinh. Nhưng nếu trình bày theo quan điểm pháp nghĩa thì như sau: "Pattiṃ dadanti etenāti: Pattidānaṃ" "Người có tâm kiến tạo các việc phước thường cho phước của mình đến với người đã quá vãng hoặc người còn tại tiền bằng pháp chủng nào, pháp chủng đó gọi là hồi hướng phước. Tức tư câu sanh với tâm đại thiện trong lúc chú tâm hồi hướng phước."

    Hỏi: Khi hồi hướng phước cho người khác như vậy thì phước đó có bị giảm thiểu xuống hay không?

    Đáp: Không giảm thiểu, mà ngược lại còn được vun bồi thêm nữa. Sự việc như vậy, bởi vì việc tạo phước khác với việc cho tài vật. Như khi cho tài vật thì tài vật đó bị mất đi, nhưng việc hồi hướng phước thì trái ngược lại phước đó sẽ càng tăng trưởng vun bồi thêm lên. Như việc thắp một ngọn nến lên thì dù có đem hàng trăm, hàng ngàn cây nến khác đến mồi thì ánh sáng của ngọn nến đầu tiên không bị mất đi; ngược lại ánh sáng được nhân lên gấp bội phần từ sánh sáng của ngọn nến đầu tiên. Việc hồi hướng phước cho người khác thường hỗ trợ cho thiện pháp mà mình hồi hướng được tăng trưởng thêm lên sau mỗi lần ta hồi hướng.

    *

    PATTĀNUMODĀNA: TÙY HỶ PHƯỚC

    TÙY HỶ PHƯỚC (Pattānumodāna): Được trình bày định nghĩa như sau: "Pattiyā anumodānaṃ: Pattānumodānaṃ". "Hiểu được việc thiện, vui thích theo phước mà người khác hồi hướng gọi là Tùy Hỷ Phước.

    Tức tùy hỷ nhận phước mà họ đã hồi hướng đến.

    Từ "Patti" (phước báu) trong hồi hướng phước là bố thí, trì giới, tu tiến mà mình đã nổ lực kiến tạo rồi hồi hướng cho người khác. Còn từ "Patti" (phước báu) trong tùy hỷ phước là thiện pháp mà họ hồi hướng đến cho mình bằng lời nói hoặc viết giấy (thơ, sách). Vì vậy, mới trình bày định nghĩa khác như sau: "Pāpīyatīti: Patti". Thiện pháp mà người khác hồi hướng cho vì vậy gọi là phước báu (Patti).

    "Pattiṃ anumodanti sādhukāraṃ dadanti etenāti: Pattānumodānaṃ"

    Người tùy hỷ phước thiện mà họ hồi hướng cho rồi nói lên lời "Sàdhu" bằng tư nào, tư đó gọi là tùy hỷ phước. Tức tư câu sanh với tâm đại thiện liên quan đến việc tùy hỷ phước. Khi nhận xét định nghĩa đã trình bày trên thì sẽ thấy được rằng: Tư trong một tâm đại thiện hỷ thọ nào thuộc loại tùy hỷ phước thì được viên mãn hoàn hảo, còn tư trong một tâm đại thiện xã thọ nào thuộc loại tùy hỷ phước thì không được hoàn toàn viên mãn. Bởi vì tâm trong lúc đó thiếu hoan hỷ đối với phước thiện mà họ hồi hướng cho. Chỉ tùy hỷ bằng hình thức rằng: Lành thay hay "tốt thay" theo lời nói thường quen, chứ không xuất phát từ thiện tâm. Do đó, việc tùy hỷ phước trở thành tùy hỷ phước viên mãn hoàn hảo được thì phải có tâm hoan hỷ. Nếu tùy hỷ bằng tâm tương ưng trí hỷ thọ thì sẽ trở thành tùy hỷ phước thù thắng.

    Việc tùy hỷ không được gọi là tùy hỷ phước thật

    Việc tùy hỷ không được gọi là tùy hỷ phước thật tức khi nhìn thấy người khác đang tạo phước như bố thí, trì giới, tu tiến. Hoặc nhìn thấy trên bảng ghi tên công đức của thí chủ đã kiến tạo cúng dường thì hoan hỷ các thiện pháp của người khác mà chỉ nói lên lời tùy hỷ rằng: "Lành thay" hay "Tốt thay". Hoặc không nói lên lời tùy hỷ đi nữa cũng không được gọi là tùy hỷ phước thật, chỉ là tùy hỷ thôi. Đối với việc tùy hỷ được gọi là tùy hỷ phước thật sự là phước thiện mà người nổ lực kiến tạo rồi đem hồi hướng cho như vậy mới được gọi là tùy hỷ phước thật.

    Hồi hướng phước có 2 loại:

    1- Uddissikapatti: Hồi hướng phước đích danh.

    2- Anuddissikapatti: Hồi hướng phước không đích danh.

    Nếu phân tích câu theo văn phạm Pāli như sau:

    Uddissa + Ika + Patti = Uddissikapatti. Uddissa: Đích danh. Ika: Có. Patti: Hồi hướng phước. Khi gom 3 từ lại với nhau nghĩa là hồi hướng phước đích danh.

    Na + Uddissa + Ika + Patti: Anuddissikapatti.

    Na: Không. Uddissa: Đích danh. Ika: Có. Patti: Hồi hướng phước. Khi gom 4 từ lại lại với nhau là hồi hướng phước không đích danh.

    Cả 2 cách hồi hướng phước này, người nhận được phước đích danh khi đã nói lên lời tùy hỷ " Lành thay" rồi thì nhận được quả phước ngay tức khắc. Như loại ngạ quỷ quyến thuộc của vua Bình Sa Vương (Bimbisāra) trong kiếp trước. Khi đức vua đã dâng cúng Trúc Lâm Tịnh Xá (Veḷuvanārāma) cho bậc Chánh Đẳng Giác rồi mà không hồi hướng phước đích danh cho nhóm ngạ quỷ này, đức vua chỉ hồi hướng chung chung mà thôi. Do đó, nhóm ngạ quỷ này mới cùng nhau kêu la than khóc van xin với đức vua. Vừa rạng sáng, đức vua ngự đến yết kiến bậc Chánh Đẳng Giác, khi đảnh lễ Ngài rồi liền bạch hỏi sự việc đã gặp đêm qua. Đức Thế Tôn dạy rằng tiếng kêu của nhóm ngạ quỷ quyến thuộc đến van xin phước vì đức vua đã không hồi hướng phước đích danh mà ngài đã tạo cho nhóm ngạ quỷ đó trong khi chúng đã cố công đợi chờ từ lâu lắm rồi. Do đó, vua Bình Sa Vương mới chuẩn bị sắp đặt việc cúng dường lần thứ hai, sau đó đức vua hồi hướng đích danh cho nhóm ngạ quỷ đó. Về phần nhóm ngạ quỷ nhận được phước hồi hướng đích danh từ vua Bình Sa Vương thì cùng nhau nói rằng "Lành thay" ngay trong lúc đó quả phước hiển lộ tức khắc chúng được thọ hưởng vật thực giảm đi sự đói khát khốn khổ từ lâu. Đây là quả báu nhận được hiển lộ từ việc hồi hướng phước đích danh.

    Riêng đối với người nhận được phước hồi hướng không đích danh thì không được hiển lộ liền như người nhận được phước hồi hướng đích danh. Nhưng dù như thế nào đi nữa quả của việc tùy hỷ phước thuộc loại hồi hướng phước không đích danh của nhóm ngạ quỷ đó cũng không tiêu mất. Tức là khi nhận được phước thuộc loại hồi hướng phước đích danh thì ngay lúc đó việc tùy hỷ phước thuộc loại không đích danh cũng hỗ trợ thêm vào cho việc tùy hỷ phước đích danh được tăng trưởng mãnh liệt liền.

    Theo như việc đã trình bày trên, ám chỉ đến người đã quá vãng, đã tái sanh làm loại ngạ quỷ Paradattupajīvika, Viṇipātikāsurā, ngạ quỷ Vemānika và một nhóm chư thiên bậc thấp khác nữa trong cõi Tứ Đại ThiênVương mà thôi. Riêng về nhóm nhân loại với nhau cũng có sự tùy hỷ phước thuộc loại hồi hướng phước đích danh hay hồi huớng phước không đích danh. Nhưng quả nhận được không phải là đồ đạc, vàng bạc, vật thực, trú xứ giống như loài ngạ quỷ nhận được mà chỉ nhận được sự hân hoan vừa lòng. Đối với người hồi hướng thì nhận được sự tôn sùng tán thán là người có tâm hào phóng, rộng rãi được mọi người thương mến và chính tâm mình cũng nhận được sự an lạc, sắc mặt tươi tỉnh trong sáng không mê muội.

    * Cách hồi hướng phước thuộc loại đích danh như sau:

    Idaṃ me puññaṃ mātāpituācariyañatimittasamūhānaṃ demi".

    - Xin hồi hướng phước bố thí, trì giới, tu tiến của tôi đến với cha mẹ, thầy tổ, quyến thuộc, bạn bè đã quá vãng hoặc đang tại tiền.

    * Cách hồi hướng phước thuộc loại không đích danh như sau:

    "Idaṃ me puññaṃ sabbasattānaṃ demi".

    - Xin hồi hướng phước bố thí, trì giới, tu tiến của tôi đến với tất cả các chúng sanh.

    *

    DHAMMADESANĀ: THUYẾT PHÁP

    THUYẾT PHÁP (Dhammadesanā): Được trình bày định nghĩa như sau: "Dhammaṃ desenti etāyāti: Dhammadesanā". "Người hằng Thuyết Pháp giảng dạy bằng pháp chủng nào, pháp chủng làm nhân cho việc thuyết giảng chỉ chỉ dạy đó gọi là Thuyết Pháp. Tức tư trong tâm đại thiện câu sanh với như lý tác ý dẫn đầu".

    Việc chỉ dạy và giảng giải về những nghề nuôi mạng vô tội. Như chỉ dạy về lãnh vực khoa học, sử học, y học, nông nghiệp chỉ dạy giảng thuyết về những nghề này cũng được liệt vào Thiện Thuyết Pháp. Do đó, Ngài A xà lê Vibhāvaniṭīkā mới trình bày rằng: "Nirajjavijjādi upadissanacetanāpi ettheva saṇgahaṃ gacchati". "Tư làm nhân cho việc giảng dạy những nghề vô tội cũng trợ duyên vào việc Thuyết Pháp được".

    Có 3 loại nghề vô tội:

    1. Sippāyatanavijā: Nghề cởi voi, cởi ngựa và lái xe.

    2. Kammāyatanavijā: Nghề nông, thương mại, thủ công…

    3. Vijjāṭhānavijā: Nghề khoa học, chiêm tinh, y học, huyền bí học.

    Việc giảng dạy chỉ dẫn cả 3 nghề trên, chư tỳ kheo, sa di không được chỉ dạy. Nếu chỉ dạy thì có tội vì không phải là phận sự của Pháp Học (Ganthadhura) và phận sự của Pháp Hành (Vipassanādhura). Đây chỉ là nghề vô tội đối với cư sĩ. Do đó, tỳ kheo, sa di phải tránh xa việc chỉ dạy các nghề này.

    *

    Quả báo của sự thuyết pháp

    Người Thuyết Pháp bằng tâm trong sạch thì được quả báo nhiều. Bởi không mong cầu đến lợi lộc, tán thán, địa vị, danh tiếng mà chỉ nhất mực mong cầu cho người nghe được lợi. Việc Thuyết Pháp này được liệt vào Thuyết Pháp chơn chánh và có nhiều quả báo. Còn người Thuyết Pháp bằng tâm không trong sạch thì ít quả báo. Bởi do mê muội mong cầu đến lợi lộc, tán thán, địa vị, danh tiếng và trong thâm tâm cũng suy tính làm cho người khác biết rằng: "Ta là pháp sư, thầy giáo thọ". Việc Thuyết Pháp này được liệt vào Thuyết Pháp không chơn chánh có quả báo nhỏ nhoi.

    Lại nữa, người Thuyết Pháp bằng tâm không trong sạch nhưng khi đang Thuyết Pháp nếu như sanh khởi tâm trong sạch tức không mong cầu đến lợi lộc, tán thán, địa vị, danh tiếng mà chỉ nhất mực muốn cho người nghe được sự lợi ích. Việc Thuyết Pháp trong lúc đó là Thuyết Pháp chơn chánh và được nhiều quả báo. Như Ngài A xà lê Mahābuddhaghosa đã trình bày trong sớ giải Aṭṭhasālinī rằng: "Eko evaṃ maṃ dhammakathikoti jānissantīti icchāya ṭhatvā lābhagaruko hutvā deseti, taṃ na mahapphalaṃ".

    "Người Thuyết Pháp bằng tâm bất tịnh bởi do suy tính làm cho mọi người biết được mình là vị pháp sư lẫn mong cầu lợi lộc, thì việc Thuyết Pháp này có quả báo nhỏ nhoi không thù thắng"

    "Eko attano paguṇaṃ dhamma apaccāsīsamāno vimuttāyatanasīsena paresaṃ deseti, idaṃ desanāmayaṃ puññakiriyāvatthu nāma".

    "Người nào Thuyết Pháp làm cho quần chúng được am hiểu thông suốt mà không mưu tìm lợi lộc. Chỉ nhất tâm hướng đến làm cho chứng đạt A La Hán Quả thì việc Thuyết Pháp này được gọi là phước nghiệp sự thành tựu do Thuyết Pháp"

    - Làbha: Ám chỉ đến phẩm vật mà họ sắp đặt cúng dường.

    - Sakkāra: Ám chỉ được cung kỉnh tôn sùng.

    - Yasa: Ám chỉ đến tùy chúng hoặc đệ tử.

    - Siloka: Ám chỉ đến địa vị danh tiếng.

    *

    DHAMMASAVANA: THÍNH PHÁP

    THÍNH PHÁP (Dhammasavana): Được trình bày định nghĩa như sau: "Dhammaṃ suṇanti etenāti: Dhammasavanaṃ". Người lắng nghe Pháp bằng pháp chủng nào, pháp chủng ấy làm nhân cho việc lắng nghe Pháp đó gọi là Thính Pháp.

    Tức tư trong tâm đại thiện câu sanh với như lý tác ý dẫn đầu.

    Người nghe giảng dạy về những kiến thức vô tội sai biệt của thế gian cũng được gọi là Thiện Thính Pháp. Do đó, Ngài A Sà Lê Vibhāvinīṭīkā mới trình bày rằng:

    "Niravajjāvijjādisavanacetanāpi ettheva sangayhati"

    "Sự chú tâm nghe giảng dạy những kiến thức vô tội sai biệt cũng hỗ trợ cho Thiện Thính Pháp".

    Lại nữa, việc thính pháp này có 2 loại như thính pháp mà người nghe có suy nghĩ rằng: "Nếu ta thường xuyên Thính Pháp thì sẽ được mọi người khen ngợi, tán thán cho rằng ta là người có thiện tâm và đức tin chơn chánh". Việc Thính Pháp này thường cho quả thấp kém, được lợi ích nhỏ nhoi.

    Còn đối với việc Thính Pháp mà nhận thức rằng: "Thính Pháp là điều tốt làm cho tâm nhu thuận, có trí tuệ ghi nhớ biết được tội, phước, thiện, ác, lợi ích, không lợi ích, làm cho tâm mát mẻ hân hoan thanh tịnh phát sanh Từ tâm, Bi tâm bởi được nghe vị pháp sư chỉ dạy cho từ bỏ thói quen tội lỗi tai hại".

    Thính Pháp do nhận thức như vậy thì cho quả được thù thắng, lợi ích đặc thù được liệt vào Thiện Thính Pháp thật sự. Do đó, Ngài A xà lê Mahābuddhaghosa đã trình bày trong sớ giải Atṭhasālinī rằng: "Eko suṇanto iti maṃ saddhoti jānissantīti suṇāti, taṃ na mahapphalaṃ .Eko evaṃ me mahapphalaṃ bhavissatīti hitapharaṇena muducittena dhammaṃ suṇāti, idaṃ savanamayaṃ puññakiriyavatthu nāma".

    "Người nào Thính Pháp bởi suy tính làm cho mọi người hiểu rằng: "Ta là người có đức tin chơn chánh mong cầu được Thính Pháp. Việc Thính Pháp mà suy tính như vậy thường cho quả thấp kém, được lợi ích nhỏ nhoi".

    "Người nào Thính Pháp bởi nhận thức rằng: "Việc Thính Pháp sẽ cho quả thù thắng, được lợi ích cao thượng, đem lại an lạc quảng đại cho ta và tâm ta sẽ nhu thuận có từ tâm độ lượng bởi được nghe người Thuyết Pháp". Việc Thính Pháp mà nhận thức chu toàn nơi tâm như vậy, Thính Pháp loại này được gọi là phước nghiệp sự thuộc loại Thính Pháp chín chắn.

    *

    DIṬṬHI-UJUKAMMA: CHẤN CHỈNH TRI KIẾN

    CHẤN CHỈNH TRI KIẾN (Diṭṭhi-ujukamma): Được trình bày định nghĩa như sau: "Diṭṭhiyā ujukaraṇaṃ: Diṭṭhiujukammaṃ" "Làm cho tri kiến được chín chắn gọi là chấn chỉnh tri kiến".

    Tức trí tuệ biết về nghiệp quả (kammassakatāñāṇa) câu sanh với tư thiện.

    Chấn Chỉnh Tri Kiến là tên gọi của trí tuệ biết về nghiệp quả. Như Ngài trưởng lảo Ānanda đã trình bày trong Kamāvacarakusalapada của Mūlaṭīkā rằng: "Kammassakatāñāṇaṃ: Diṭṭhiujukammaṃ".

    Trí tuệ biết rằng tất cả chúng sanh được thành đạt bởi hành động thiện lẫn bất thiện của mình. Còn tài sản, vàng bạc, cha, mẹ, chồng, vợ, con cái không thật sự làm cho tất cả chúng sanh thành đạt được vì không dính liền theo chúng sanh trong đời vị lai; chỉ được thành đạt hiện hữu trong kiếp này nhưng không chắc chắn vì còn các hiểm họa khác đe dọa chiếm đoạt đi mất. Sự thấy như vậy được gọi là Chấn Chỉnh Tri Kiến.

    Nhưng trong Kammacatukka (nhóm 4 nghiệp) đã trình bày đến tư sai biệt là hiện thân của nghiệp. Cho nên sở hữu tư câu sanh với trí tuệ về nghiệp quả cũng được gọi là chấn chỉnh tri kiến. Thật vậy, trí tuệ biết về nghiệp quả sanh lên mà loại trừ sở hữu tư thường không có. Do đó, khi đã trình bày đến trí tuệ biết về nghiệp quả là hiện thân của chấn chỉnh tri kiến thì coi như đã đề cập đến sở hữu tư. Đây là trình bày đến trường hợp không ngoại lệ (avinàbhàvanaya).

    Định nghĩa từ "Kammassakatāñāṇa" (trí tuệ biết về nghiệp quả). "Kammaṃ sakaṃ yesanti: Kammassakā". "Tất cả chúng sanh được thành đạt do nghiệp. Vì vậy, mới gọi nghiệp là sở thuộc của tất cả chúng sanh".

    "Kammassakānaṃ bhāvo: Kammassakatā". "Sự sanh tồn của tất cả chúng sanh được hình thành do nghiệp, nên gọi là nghiệp sở thuộc. Trí biết về nghiệp quả sanh tồn của tất cả chúng sanh gọi là nghiệp sở thuộc trí, tức sở hữu trí tuệ.

    Trình bày định nghĩa theo cách khác nữa: "Attano paccayehi ujuṃ karīyatīti: Ujukammaṃ". "Diṭṭhi eva ujukammaṃ: Diṭṭhiujukammaṃ". "Pháp chủng nào làm duyên cho mình hành động chơn chánh, pháp chủng đó gọi là Chấn Chỉnh Tri Kiến".

    "Tri kiến được chính trí tuệ làm cho chín chắn, gọi là Chấn Chỉnh Tri Kiến".

    Từ "Kiến" (diṭṭhi) trong nơi đây ám chỉ đến trí tuệ là pháp chủng biết chín chắn đúng sự thật, tức nghiệp sở thuộc trí "Kammassakatāñāṇa".

    "Attano paccayehi". Pháp làm duyên cho mình, ám chỉ pháp làm duyên cho nghiệp sở thuộc trí.

    Pháp làm duyên cho nghiệp sở thuộc trí có 3 loại:

    1. Trí văn (Sutamayapaññā): Tuệ phát sanh do học tập hỗ trợ cho nghiệp sở thuộc trí sanh lên.

    2. Trí tư (Cintamayapaññā): Tuệ do suy nghiệm trắc lượng đời sống của tất cả chúng sanh hữu bệnh, vô bệnh, thông minh, ngu dốt, an lạc, khổ đau, trường thọ, yểu thọ, giàu sang, nghèo hèn… Các việc này trợ duyên cho nghiệp sở thuộc trí sanh lên.

    3. Trí tu (Bhāvanāmayapaññā): Tuệ do tu thiền quán hỗ trợ cho nghiệp sở thuộc trí sanh khởi.

    Trong định nghĩa thứ 2 này thì trí tuệ được phân thành 2 loại:

    1- Tuệ thuộc về nhân: Là 3 tuệ đã trình bày phía trên.

    2- Tuệ thuộc về quả: Là nghiệp sở thuộc trí.

    "Kammassakatāñāṇa".

    Do nhân này, cho dù tất cả chúng sanh chưa loại trừ thân kiến (còn chấp thủ 5 uẩn là ta). Nhưng khi hiểu đúng về Cụ Túc Chánh Kiến (Dasavatthukasammādiṭṭhi) thì được gọi là có nghiệp sở thuộc trí trợ cho thành tựu Chấn Chỉnh Tri Kiến.

    *

    Cụ túc chánh kiến (Dasavatthukasammādiṭṭhi)

    1. Atthi dinnaṃ: Thấy rằng các việc làm phước nhận được quả an lạc.

    2. Atthi yiṭṭhaṃ: Thấy rằng các sự cúng dường cũng nhận được quả an lạc.

    3. Atthi hutaṃ: Thấy rằng các việc cung kỉnh tiếp đải cũng nhận được quả an lạc .

    4. Atthi sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko: Thấy rằng các hành động thiện, bất thiện phải gặt quả trực tiếp hoặc gián tiếp.

    5. Atthi ayaṃ loko: Thấy rằng có kiếp này, như người đang sống hiển hiện trong hiện tại có cùng quan điểm với nhau là: "Có kiếp này và kiếp sau bởi vì còn tái sanh tiếp tục".

    6. Atthi paro loko: Thấy rằng có kiếp sau, như kiếp vị lai vì trong kiếp hiện tại khi mệnh chung rồi thì còn tái sanh lại nữa.

    7. Atthi mātā: Thấy rằng đối xử tốt hay xấu với mẹ thì phải gặt quả trong tương lai.

    8. Atthi pitā: Thấy rằng đối xử tốt hay xấu với cha thì phải gặt quả trong tương lai.

    9. Atthi sattā opapātikā: Thấy rằng các loài hữu tình hóa sanh khi sanh lên thì to lớn tức khắc là có thật, như chúng sanh địa ngục, ngạ quỷ, chư thiên, Phạm Thiên.

    10. Atthi loke samaṇabrahmaṇā samaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti: Thấy rằng có sa môn, bà la môn tự mình biết rõ đời này đời sau. Có khả năng giải thích chỉ dạy cho hiểu được. Và có sa môn, Bà la môn thực hành chân chánh, đúng đắn đạt đến nhất hướng. (Ám chỉ người tu tiến Chỉ Tịnh, Minh Sát mà đắc thiền, Đạo Quả và người xuất gia thực hành chân chánh hoàn toàn là lời nói thật chứ không phải tu hành chỉ để nuôi mạng).

    Cụ túc chánh kiến như đã trình bày trên ví như cục đá mài dùng để mài thử xem các chất vàng thật hay giả. Hoặc dùng nước acid nhiểu vào thử xem bạc, vàng y, vàng tây là thật hay không thật; thì cụ túc chánh kiến cũng như thế đó. Chính cụ túc chánh kiến là dụng cụ đo lường, trắc lượng tri kiến của mình xem có thật đúng đắn viên mãn chưa. Nếu thấy tri kiến đúng đắn viên mãn theo quy định cụ túc chánh kiến như đã trình bày trên thì nên hiểu rằng: Tri kiến loại này là tri kiến chính chắn thuộc chấn chỉnh tri kiến.

    Nếu như tri kiến chưa được viên mãn cả 10 chi phần chánh kiến mà chỉ được 2 hoặc 3 điều thì chưa được liệt vào chấn chỉnh tri kiến. Bởi vì phần nhiều con người không có sự suy xét thâm sâu tinh tế. Nếu như tri kiến có chín chắn thì cũng chỉ có giới hạn trong điều 1, 2, 3 thuộc loại tri kiến hời hợt thô sơ. Kể từ điều thứ 4 trở đi thường có sự suy xét không thấu đáo nỗi.

    Trong điều thứ 1, 2, 3 cho dù là tri kiến chín chắn nhưng chỉ là tri kiến cho thấy việc làm phước, cúng dường, cung kỉnh,tiếp đãi được quả lợi ích. Bởi vì làm cho mình được hãnh diện, thương mến, tôn trọng, tán thán trong đoàn thể xã hội. Đồng thời cũng là nhân hỗ trợ cho kế sanh nhai của mình được thuận lợi thoải mái. Vì thế, chỉ thuộc quả nhận được trong kiếp này (hiện báo quả Ditthidhammavedanīyaphala). Còn đối với quả sẽ nhận được trong kiếp sau (sanh báo quả Uppajjavedanīyaphala) và quả nhận được kể từ kiếp thứ 3 trở đi cho đến khi Níp Bàn (hậu báo quả Aparāpariyadanìyaphala) cũng không thể suy nghĩ đến nỗi nói chi đến điều khác nữa. Cho rằng có tri kiến chín chắn trong điều 1, 2, 3 và cũng có làm đúng theo quy định của cụ túc chánh kiến thật sự thì cũng chỉ đúng một phần thôi. Bởi vì những người này không có trí văn, trí tư thành tựu từ việc học tập về Pháp Học, cũng không có trí tu thành tựu từ việc tu tiến Minh Sát Nghiệp Xứ về Pháp Hành chín chắn. Vì vậy, hàng cư sĩ hoặc xuất gia mà có biết hay không có biết về kiến thức thế gian đi nữa. Nhưng nếu tri kiến mình chưa chín chắn theo quy định của cụ túc chánh kiến thì nên nỗ lực chuyên cần trau dồi học tập về Pháp Học hay Pháp Hành cho nghiêm túc. Nhằm chỉnh đốn bổ sung cho vẹn toàn tri kiến của mình theo quy định của cụ túc chánh kiến. Kết quả của việc làm sẽ hữu ích như khi được sanh làm người sẽ gặp Phật Giáo và còn xứng đáng được gọi là phật tử thật sự đúng nghĩa. Đây cũng là thành quả thắng lợi ưu việt và cũng là cứ điểm để tự hào vững tâm trong kiếp lai sinh của mình.

    Lại nữa, người có tri kiến hoàn hảo đúng theo quy định của cụ túc chánh kiến trong mọi trường hợp. Thì coi như nghiệp sở thuộc trí đã nghiễm nhiên hiện hữu nơi người đó. Do đó, việc bố thí, trì giới, tu tiến của người đó hằng được quả phước vô lượng không có gì có thể so sánh được, giống như hạt giống bồ đề mọc lên thành cây đại thọ bồ đề. Ngược lại việc bố thí, trì giới, tu tiến của người không có nghiệp sở thuộc trí thì quả phước đương nhiên nhỏ nhoi, giống như cây đại thọ bồ đề chỉ mọc ra trái là hạt giống.

    Vì vậy, Ngài A xà lê Mahābuddhaghosa mới diễn giải lợi ích của nghiệp sở thuộc trí trong Catukkaniddesavaṇṇanā sớ giải Sammohavinodanī rằng:

    "Imasmiṃ kammassakatāñāṇe ṭhatvā bāhuṃ danaṃ datvā sīlaṃ puretvā uposathaṃ samādiyitvā sukhena sukhaṃ sampattiyā sampattiṃ anubhavitvā nibbānaṃ pattānaṃ gaṇanaparicchedo natthi".

    "Người hằng kiến tạo phước nhiều lần bởi an trú vững chắc trong nghiệp sở thuộc trí, thúc liễm không làm cho hoại ngũ giới hay bát quan trai giới thì không thể xác định được số lượng người Níp Bàn sau khi nhập vào lạc trú định theo tuần tự nối tiếp nhau".

    TRÌNH BÀY CHI PHÁP CHẤN CHỈNH TRI KIẾN VỀ 3 LÚC CHỦ TÂM

    1. Chấn chỉnh tri kiến trước lúc chủ tâm, gồm có 8 tâm đại thiện.

    2. Chấn chỉnh tri kiến trong lúc đang chủ tâm, gồm có 4 tâm đại thện tương ưng trí.

    3. Chấn chỉnh tri kiến sau lúc chủ tâm, gồm có 8 tâm đại thiện.

    Thích giải: Người chưa có tri kiến chín chắn theo Phật Giáo thì trong các vấn đề mệnh chung và tái sanh, khổ cảnh như địa ngục - ngạ quỷ - a tu la - nhàn cảnh như 6 tầng trời dục giới. Nhân loại mệnh chung rồi tái sanh làm bàng sanh, làm người cũng có. Bàng sanh chết rồi tái sanh lại làm người, làm bàng sanh cũng có. Khi suy xét như vậy thấy rằng tri kiến của mình chưa chín chắn cho nên mới học tập về sự diễn biến của thân tâm ngỏ hầu chỉnh đốn tri kiến của mình cho hoàn chỉnh đúng theo Phật Giáo. Việc suy xét chỉnh đốn tri kiến đó gọi là chấn chỉnh tri kiến trước lúc chủ tâm (tư tiền).

    Khi suy xét tỏ tường như vậy rồi thì bắt đầu học tập riêng biệt về vấn đề căn bản diễn biến của pháp hữu mạng quyền và pháp vô mạng quyền. Sự học tập này làm cho tâm dần dần hoàn hảo, tri kiến nhận thức cũng tiến bộ theo tuần tự. Khi tri kiến nhận thức rõ ràng về vấn đề mệnh chung, tái sanh, địa ngục, thiên đàng… thì chính tri kiến sáng tỏ này là chấn chỉnh tri kiến trong lúc đang chủ tâm (tư hiện).

    Sau khi gặt hái được tri kiến hoàn chỉnh đúng đắn từ việc học tập mới suy xét đến quá trình đời sống của mình rằng: "Lúc trước ta có nhiều tà kiến, giờ đây ta đã chỉnh đốn tri kiến được chín chắn hoàn hảo theo lời dạy trong Phật Giáo rồi". Chính việc suy xét như vậy, là chấn chỉnh tri kiến sau khi chủ tâm (tư hậu).

    Do đó, Ngài A xà lê Māhabuddhaghosa mới trình bày kệ ngôn phước nghiệp sự trong sớ giải Aṭṭhasālinī rằng:

    1- "Diṭṭhiṃ ujukaṃ karissamīti cintentopi tesaṃ yeva aṭṭhānaṃ aññatarena cinteti". "Người suy xét chỉnh đốn tri kiến của mình được chín chắn đúng theo căn bản của Phật Giáo, thì sự suy xét này bằng 1 trong 8 tâm đại thiện (chấn chỉnh tri kiến trước lúc chủ tâm).

    2- "Diṭṭhiṃ ujukaṃ karonti pana catunnaṃ ñāṇasampayuttānaṃ aññatarena karoti". "Người chỉnh đốn tri kiến của mình được chín chắn bằng Pháp Học hoặc Pháp Hành thì việc chỉnh đốn này bằng 1 trong 4 tâm đại thiện tương ưng trí (chấn chỉnh tri kiến trong lúc đang chủ tâm)."

    3- "Diṭṭhiṃ me ujukā katāti paccavekkhanto aṭṭhānaṃ aññatarena paccavekkhati". "Người thẩm xét tri kiến của mình rằng: Ta đã chỉnh đốn chín chắn hoàn hảo rồi, thì việc thẩm xét này bằng 1 trong 8 tâm đại thiện (chấn chỉnh tri kiến sau khi chủ tâm).

    *

    TÓM LƯỢC THẬP PHƯỚC NGHIỆP SỰ THEO BỐ THÍ - TRÌ GIỚI - TU TIẾN CÙNG LỜI THÍCH GIẢI

    Trong thập phước nghiệp sự thì hồi hướng phước và tùy hỷ phước được gom vào thiện thí gọi là phước thuộc về bố thí (Dānamaya). Cung kỉnh và phục vụ được gom vào thiện giới gọi là phước thuộc về trì giới (Sīlamaya). Thính Pháp, Thuyết Pháp và chấn chỉnh tri kiến được gom vào thiện tu tiến gọi là phước thuộc về tu tiến (bhāvanāmaya).

    Thập phước nghiệp sự được gom thành 3 loại như vậy.

    Thích giải: Trong tất cả thập phước nghiệp sự này thì thiện thí đối trị lại với ganh tỵ. Như không hoan hỷ trong việc thành đạt hoặc lợi ích tốt đẹp của người khác và đối trị lại với bỏn xẻn như luyến tiếc tài sản hoặc lợi lộc của mình. Vì vậy, người bố thí bắt buộc phải chiến thắng ganh tỵ và bỏn xẻn thì việc bố thí mới thành tựu được. Trình bày như vậy, bởi vì nếu còn ganh tỵ và bỏn xẻn lúc nào thì lúc đó sẽ không hoan hỷ do nghĩ về tài sản của mình bị tiêu hao vô ích. Chính vì thế việc bố thí là pháp đối trị lại với ganh tỵ và bỏn xẻn. Do đó, khi bố thí hoàn thành trong lúc nào thì lúc đó ganh tỵ, bỏn xẻn cũng được triệt tiêu trong cùng một lúc.

    Còn việc hồi hướng phước và tùy hỷ phước này cũng giống như thiện thí. Nghĩa là pháp ganh tỵ hiện hữu trong người nào thì người đó sẽ không bao giờ hoan hỷ khi người khác nhận được phước của mình để được hạnh phúc an lạc thoát khỏi khổ đau. Còn chất chứa pháp bỏn xẻn thì không hoan hỷ hồi hướng phước của mình cho người khác. Chính vì thế nên việc hồi hướng phước không thể thành tựu được. Như vậy việc hồi hướng phước được thành tựu trong lúc nào thì lúc đó ganh tỵ và bỏn xẻn đồng bị tiêu diệt.

    Giữa tùy hỷ phước với ganh tỵ và bỏn xẻn cũng giống như vậy, nghĩa là còn tư tưởng ganh tỵ thì sẽ không hoan hỷ trong việc bố thí, trì giới, tu tiến của người khác, trái lại còn bất mãn cho rằng việc làm thiện của người khác mang tính chất khoe khoang. Tư tưởng ấy làm cho ta không thể chấp nhận phước của họ hồi hướng cho. Nếu bị bỏn xẻn chiếm ngự thì chỉ có luyến tiếc tài sản của mình chắc chắn không thể noi gương người hồi hướng phước để hành theo. Từ đó họ không sẵn lòng nhận phước phát sanh của sự bố thí mà người khác hồi huớng cho. Còn như việc hồi hướng phước đó liên quan đến trì giới, tu tiến thì chính mình cũng thản nhiên bỏ mặc không tùy hỷ và cũng không vui thích thiện pháp đó. Như thế đương nhiên việc trì giới, tu tiến họ cũng không hành theo như vậy được. Chính do nhân này, mới không hoan hỷ với việc hồi hướng phước đó. Vì vậy, khi việc tùy hỷ phước thành tựu trong lúc nào thì lúc đó vắng mặt ganh tỵ và bỏn xẻn.

    Tóm lại: Việc hồi hướng phước và tùy hỷ phước đều có tính chất giống như thiện thí vì đối trị lại với ganh tỵ và bỏn xẻn. Nương vào nguyên nhân này, Ngài mới liệt hồi hướng phước và tùy hỷ phước vào phước thuộc về thiện thí (kusaladānamaya).

    Lại nữa, trong việc hồi hướng phước thì người hồi hướng phước tạo đủ cả 3 loại thiện, 2 loại thiện và 1 loại thiện cũng có. Nhưng việc hồi hướng phước liên quan đến loại thiện đó, đối với người tùy hỷ phước từ người cho thì chỉ nhận được duy nhất là phước thiện thuộc về bố thí (dānamaya) mặc dù người hồi hướng cho đủ cả 3 loại thiện, 2 loại thiện, 1 loại thiện đi chăng nữa.

    Thích giải:

    1- Người bố thí, trì giới, tu tiến rồi hồi hướng phước. Hoặc trì giới, tu tiến rồi hồi hướng phước thì hồi hướng đó đó được cả 3 loại thiện là phước thuộc về thiện thí (dānamayakusala), phước thuộc về thiện giới (sīlamayakusala) và phước thuộc về thiện tu tiến (bhāvanāmayakusala).

    2- Người bố thí, trì giới rồi hồi hướng phước. Hoặc người trì giới rồi hồi hường phước thì được 2 loại thiện là phước thuộc về thiện thí (dānamayakusala) và phước thuộc về thiện giới (sīlamayakusala).

    3- Người bố thí, tu tiến rồi hồi hướng phước. Hoặc tu tiến rồi hồi hướng phước thì được 2 loại thiện là phước thuộc về thiện thí và phước thuộc về thiện tu tiến.

    4- Người bố thí rồi hồi hướng phước chỉ duy nhất phước thuộc về thiện thí.

    Sự việc như vậy bởi do việc hồi hướng phước cũng như tùy hỷ phước được hợp nhất gom vào phước thuộc về thiện thí.

    Cung kỉnh và phục vụ này thuộc tác trì giới (càrìttasìla), tức thái độ cư sĩ đối với bậc xuất gia, mà các bậc chân hằng tán thán là hành vi tốt đẹp trong Phật Giáo. Do đó, mới liệt vào phước thuộc về thiện giới.

    Thính Pháp, Thuyết Pháp và Chấn Chỉnh Tri Kiến là việc làm hỗ trợ cho thiện pháp tăng trưởng lên giống như tu tiến Chỉ Tịnh, Minh Sát. Vì vậy, Ngài mới liệt vào phước thuộc về thiện tu tiến .

    *

    SỰ NHIẾP THUYẾT PHÁP - CHẤN CHỈNH TRI KIẾN THÀNH MỘT LÝ KHÁC THEO SỚ GIẢI PHẬT NGÔN

    Việc Thuyết Pháp, dạy đạo nhóm này được nhiếp vào trong phước thuộc về thiện thì cũng được. Như Đức Phật Ngài thuyết rằng: "Sabbadānaṃ dammadanaṃ jināti". "Thí pháp thù thắng hơn tất cả thí".

    Còn chấn chỉnh tri kiến thì Ngài A xà lê Mahābuddhaghosa đã trình bày trong Kinh Saṃgīti của sớ giải Pathikavagga rằng: "Diṭṭhiujukammaṃ sabbesaṃ niyamalakkhanaṃ" "Chấn chỉnh tri kiến là biểu hiện viên mãn của tất cả phước nghiệp sự". Tức chấn chỉnh tri kiến nhiếp vào trong phước thuộc về bố thí, phước thuộc về trì giới và phước thuộc về tu tiến đều được hết.

    Ngài trình bày như vậy, bởi vì chấn chỉnh tri kiến giống như người cầm bánh lái ngồi rẽ lái con tàu cho đi đúng hướng, nếu như không có người điều khiển thì chắc chắn con tàu sẽ đi lạc hướng. Điều này như thế nào thì người bố thí, trì giới, tu tiến nếu không có chấn chỉnh tri kiến (Diṭṭhiujukamma) kết hợp thì các việc này sẽ không được viên mãn như ý muốn của mình. Như khi được sanh làm người, chư thiên thì chỉ là người hay chư thiên bậc thấp có thân thể khiếm khuyết. Nếu như có được thân thể vẹn toàn thì cũng sẽ là người tối dạ, ngu dốt và luôn bị nhiệt não không an lạc về vấn đề tài sản vật chất. Tâm thiện của nhóm người này, nói theo chi pháp là tâm thiện nhị nhân bậc hạ. (Dvihetukakusalaomaka).

    Đối với thiện của người kết hợp với chấn chỉnh tri kiến thì làm cho quả thù thắng theo như ý muốn của mình. Như khi được sanh làm người, chư thiên thì có thân thể hoàn hảo, kiện toàn xinh đẹp, có trí nhớ thông minh xuất chúng, thân tâm luôn thoải mái an lạc về vấn đề tài sản. Tâm thiện của nhóm người này, nói theo chi pháp là tâm thiện bậc thượng hoặc thấp hơn cũng là tâm thiện tam nhân bậc hạ (tihetukakusalaomaka).

    *

    TRÌNH BÀY THIỆN PHÁP TÍCH TẬP TỨC TÀI SẢN NÊN TÍCH LŨY TRONG CƠ TÁNH CỦA MÌNH ĐỂ CHỨNG ĐẠT NÍP BÀN

    Tài sản nên tích lũy trong cơ tánh của mình để làm tư lương chứng đạt Níp Bàn được gọi là Upanidhibhaịđa có:

    90 pháp = 30 thiện hạnh + 30 phước nghiệp sự + 30 pháp Ba La Mật.

    * 30 thiện hạnh và 30 phước nghiệp sự đã trình bày trong phần đầu rồi.

    * 30 pháp Ba La Mật = 10 pháp Ba La Mật bậc hạ (hīnapāramī) + 10 pháp Ba La Mật bậc trung (majjhimapāramī) + 10 pháp Ba La Mật bậc thượng (paṇītapāramī).

    Trong 30 pháp này, pháp Ba La Mật được thành tựu bằng dục, cần, tâm, trí tuệ có mãnh lực yếu thì thuộc về Ba La Mật bậc hạ. Ba La Mật được thành tựu bằng dục, cần, tâm, trí tuệ vừa đủ thì thuộc về Ba La Mật bậc trung. Ba La Mật được thành tựu bằng mãnh lực dũng mãnh cùng tột thì thuộc về Ba La Mật bậc thượng (vì vậy 30 pháp Ba La Mật này mới không ám chỉ đến 10 pháp Ba La Mật đáo bỉ ngạn (pāramī); 10 pháp Ba La Mật thượng bỉ ngạn (upapāramī); 10 pháp Ba La Mật đáo siêu bỉ ngạn (paramatthapāramī).

    90 thiện pháp tích tập này đã trìmh bày trong Ekanipātajātakaṭīkā rằng: "Samatiṃsa samatiṃsāni sucarittadhamma puññakiriyāvatthu pāramī yoti ime navutidhammā nibbānatthāya upanidhibhaṇḍa nāma". "Thiện pháp tích tập (upanidhibhaṇḍa) là tài sản tích lũy trong cơ tánh của mình để chứng đạt Níp Bàn có 90 pháp. Tức thiện hạnh, phước nghiệp sự, Ba La Mật mỗi pháp có 30. Tổng cộng là 90 pháp"

    Thích giải Pāli điều thứ 17 rằng: "Taṃ panetaṃ vīsatividhampi … saṇkhaṃ gacchati".

    Theo điều Pāli này trình bày đến nghiệp dục giới rằng sở hữu tư trong 12 tâm bất thiện và 8 tâm đại thiện đều là nghiệp dục giới. Vì vậy, khi gom nghiệp dục giới thí có 20 là nói theo chi pháp nhưng nói theo môn thì có 3:

    - Sanh lên bằng thân thiện và bất thiện .

    - Sanh lên bằng ngữ thiện và bất thiện .

    - Sanh lên bằng ý thiện và bất thiện .

    Nói theo việc làm có 30:

    * 10 việc làm bất thiện thuộc thập ác hạnh .

    * 20 việc làm thiện gồm có thập thiện nghiệp đạo (thập thiện hạnh) và thập phước nghiệp sự .

    Kết thúc nghiệp dục giới.

    *

    TRÌNH BÀY 5 THIỆN NGHIỆP SẮC GIỚI

    Thích giải Pāli điều 18 rằng: "Rūpāvacarakusalaṃ pana manokammameva… jhānaṇgabhedena".

    Thích giải: Việc khởi hiện của thiện nghiệp sắc giới khác nhau với thiện nghiệp dục giới. Như thiện nghiệp dục giới sanh lên bằng thân, bằng ngữ, bằng ý cũng được. Vì vậy nói theo nghiệp thì có 3 loại là thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp. Còn về thiện nghiệp sắc giới không sanh lên bằng thân và ngữ mà chỉ khởi hiện bằng ý mà thôi. Cho nên nếu nói theo nghiệp thì chỉ thuần nhất được ý nghiệp. Thiện nghiệp sắc giới không liên quan đến thắng trí, không có chức năng làm cho 2 sắc biểu tri khởi hiện. Nghĩa là không thể thi triển thần thông bằng thân và ngữ xuất phát từ thiện sắc giới được mà phải bắt nguồn từ Thắng Trí (abhiññà).

    Do đó, Ngài A xà lê Anuruddha mới trình bày rằng: "Manokammameva" thuần nhất bằng ý nghiệp.

    Một lý khác nữa, việc khởi hiện của thiện nghiệp dục giới thường sanh lên bằng nhiều cách như sanh lên từ việc bố thí gọi là phước do bố thí (dānamaya), sanh lên từ việc trì giới gọi là phước do trì giới (sīlamaya), sanh lên từ việc tu tiến Chỉ Tịnh và Minh Sát nghiệp xứ gọi là phước do tu tiến (bhāvanāmaya). Còn việc khởi hiện của thiện sắc giới chỉ sanh lên duy nhất có 1 cách là tu tiến Chỉ Tịnh nghiệp xứ về 1 trong 30 đề mục nghiệp xứ gọi là phước do tu tiến.

    Do đó, Ngài A xà lê Anuruddha mới trình bày rằng: "Tañca bhāvanāmayaṃ" "Thiện nghiệp sắc giới luôn thành tựu bằng phước do tu tiến".

    Một khía cạnh khác nữa, thiện nghiệp dục giới cho dù có loại tu tiến bằng ý nghiệp do thành tựu nương vào việc tu tiến bằng tâm đi nữa, nhưng không có thể chứng đắc kiên cố định (thiền chứng) được mà chỉ đạt đến chuẩn bị định (parikammasamādhi) và cận định (upacarasamādhi) thuộc giai đoạn đầu của kiên cố định mà thôi. Còn về thiện nghiệp sắc giới thì đạt đến chứng đắc kiên cố định được, như việc tu tiến Chỉ Tịnh nghiệp xứ của thiền giả nếu chưa đắc thiền thì thiện sắc giới chưa hiện khởi. Còn như thiện sắc giới khởi hiện thì đồng nghĩa là thiền giả đã đắc thiền.

    Vì vậy, Ngài A xà lê Anuruddha mới trình bày rằng: "Appanāpattaṃ".

    Một trường hợp khác nữa, việc khởi hiện của thiện nghiệp dục giới có 8 tâm do phân tích theo thọ, trí và tác trợ (saṃkhàra). (Đã trình bày rõ trong giáo trình Tiểu Học Thắng Pháp bậc sơ cấp). Còn việc khởi hiện của thiện nghiệp sắc giới thì phân tích theo chi pháp căn bản nên phân ra thành 5 loại, bằng cách tính theo chi thiền câu sanh như:

    - Thiền sắc giới có 5 chi thiền tầm, tứ, hỷ, lạc, định câu sanh, có 1 tâm.

    - Thiền sắc giới có 4 chi thiền tứ, hỷ, lạc, định câu sanh, có 1 tâm.

    - Thiền sắc giới có 3 chi thiền hỷ, lạc, định câu sanh, có 1 tâm.

    - Thiền sắc giới có 2 chi thiền lạc, định câu sanh, có 1 tâm.

    - Thiền sắc giới có 2 chi thiền xã, định câu sanh, có 1 tâm.

    Tổng cộng có 5 tâm thiền sắc giới tính theo chi thiền câu sanh như đã trình bày trên.

    Do đó, Ngài A xà lê Anuruddha mới trình bày rằng: "Jhānaṇgabhedena pañcavidhaṃ hoti". "Nói theo chi thiền có 5 loai".

    *

    TRÌNH BÀY 4 THIỆN NGHIỆP VÔ SẮC GIỚI

    Thích giải Pāli điều thứ 19 rằng: "Tathā ārupāvacarakusalañca maṇokammaṃ… ārammaṇabhedena caṭubhidhaṃ hoti"

    Thích giải: Việc sanh lên của thiện nghiệp vô sắc giới, nói theo môn thì khởi hiện bằng ý môn, nói theo việc làm trợ cho chứng đắc chỉ duy nhất bằng cách tu tiến, nói theo định thì phải đạt đến kiên cố định giống như việc khởi hiện của thiện nghiệp sắc giới.

    Do đó, Ngài A xà lê Anuruddha mới trình bày rằng: "Tathā arūpavacarakusalañca manokammaṃ tampi bhāvanāmayaṃ appanāpattaṃ".

    Nói về phân tích thiện nghiệp vô sắc giới thì phân ra thành 4 tâm khác với việc phân tích thiện nghiệp sắc giới, tức thiện nghiệp sắc giới nương vào chi thiền để phân tích. Còn 4 thiện nghiệp vô sắc giới, nhóm này không phân tích theo chi thiền được vì chỉ có 2 chi thiền xã và định đồng nhau. Sở dĩ phân ra thành 4 tâm bởi liên quan đến cảnh nghiệp xứ của nhóm tâm này. Như thiện tâm sanh lên do có hư không chế định làm cảnh thì gọi là tâm thiện không vô biên xứ; thiện tâm sanh lên do có tâm thiện không vô biên xứ làm cảnh thì gọi là tâm thiện thức vô biên xứ; thiện tâm sanh lên do có vô hữu chế định (natthibhavapaññatti) làm cảnh thì gọi là tâm thiện vô sở hữu xứ; thiện tâm sanh lên do có tâm thiện vô sở hữu xứ làm cảnh thì gọi là tâm thiện phi tưởng phi phi tưởng xứ.

    Do nhân này, Ngài A xà lê Anuruddha mới trình bày rằng: "Ārammaṇabhedena caṭubbiddhaṃ hoti".

    Tóm lược: Câu "Bhāvanāmayaṃ appanāpattaṃ" là trình bày cho hiểu rằng cả 9 thiện đáo đại, nhóm này sanh lên được do nương vào tu tiến Chỉ Tịnh nghiệp xứ, như chú niệm cảnh biến xứ (kasiṇa)… cho nên chỉ duy nhất do tu tiến mà không có bố thí và trì giới.

    Nếu có câu hỏi phản bác trong Vô Ngại Giải Đạo trình bày rằng, thiện nghiệp đáo đại cũng được xếp vào thiện giới, như có Pāli hiển lộ rằng: "Paṭhamajjhānena nivaraṇānaṃ, dutiyena vitakkavicārānaṃ, tatiyena pītiyā, catutthena sukhadukhānaṃ pahānaṃ sīlaṃ veramaṇī cetanā sīlaṃ saṃvaro sīlaṃ avītikkamo sīlaṃ".

    "Diệt triền cái bằng sơ thiền, diệt tầm tứ bằng nhị thiền, diệt hỷ bằng tam thiền, diệt khổ lạc bằng tứ thiền. Các sự diệt này được liệt vào diệt do giới, như phòng ngự giới (veramanisīla), tác ý giới (cetanāsīla), thu thúc giới (saṃvarasīla), tịnh giới (avitikkamasīla).

    Thích giải: Có Pāli trình bày thật nhưng chỉ trình bày bằng cách gián tiếp, không phải trình bày bằng cách trực tiếp. Bởi vì thiện nghiệp đáo đại sanh lên được không phải do nương vào trì giới mà chỉ nương vào thuần nhất tu tiến Chỉ Tịnh nghiệp xứ. Cũng như có lời nói rằng: Đức Phật đã làm cho Đề Bà Đạt Đa khởi tâm mưu tính đối kháng với Ngài vì thế mới bị rơi vào địa ngục. Nhưng thật ra không đúng như vậy, mà chính do sở hành của Đề Bà Đạt Đa dẫn dắt làm cho rơi vào địa ngục. Đức Phật chỉ là nhân tố kết hợp làm cho Đề Bà Đạt Đa thỏa mãn tạo thành tựu ác nghiệp mà thôi.

    Lại nữa kể từ Pāli điều thứ 5… điều thứ 19 trình bày rằng: "Tattha akusalaṃ kāyakammaṃ vacīkammaṃ manokammañceti kammadvāravasena tividhaṃ hoti"… cho đến "Tathā arūpāvacarakusalañca manokammaṃ tampi bhāvanāmayaṃ appanāpattaṃ ārammaṇabhedena catubbidhaṃ hoti".

    Ngài A xà lê Anuruddha trình bày cho hiểu rằng chỉ có 4 loại nghiệp như bất thiện… chưa trình bày đến cơ sở hệ quả (Pākaṭṭhāna) tức cõi là cứ điểm mà cả 4 nghiệp đó cho quả.

    Kể từ Pāli điều 20 như sau: "Etthākusalakammamuddhaccarahitaṃ"… cho đến điều 26 rằng: "Tesaư dvàdasa pàkàni"… Ngài A xà lê Anuruddha trình bày cho đến cơ sở hệ quả, tức cõi mà cả 4 nghiệp cho quả theo tuần tự được trình bày giải thích theo chi tiết sau đây:

    Thích giải Pāli điều thứ 20 rằng: "Etthākusalakammamuddhaccarahitaṃ"… cho đến "Yathārakaṃ vipaccati". Pāli điều này trình bày đến cõi mà bất thiện nghiệp cho quả, 11 nghiệp bất thiện (trừ tư câu sanh với tâm phóng dật) cho quả tái tục trong 4 cõi khổ.

    Như người tái sanh vào 4 cõi khổ bởi do 1 tâm nào trong 11 bất thiện nghiệp làm nhân. Còn tư câu sanh trong tâm phóng dật không có chức năng cho quả tái tục, vì người tái sanh vào 4 cõi khổ không nương vào tư câu sanh trong tâm phóng dật làm nhân. Thời bình nhật là thời gian sau khi tái tục cho đến khi chết, thì cả 12 nghiệp bất thiện cho quả được. Tức 7 tâm dị thục quả bất thiện như thấy cảnh xấu, nghe cảnh xấu… sanh lên trong 11 cõi dục giới và 15 cõi sắc giới (trừ cõi Vô Tưởng).

    Tóm lược: Pāliđiều này rằng:

    Cơ sở hệ quả của bất thiện nghiệp nói về thời tái tục được 4 cõi khổ.

    Nói về thời bình nhật được 11 cõi dục giới và 15 cõi sắc giới (trừ cõi Vô Tưởng).

    *

    TRÌNH BÀY NGUYÊN NHÂN SỞ HỮU TƯ CÂU SANH TRONG TÂM PHÓNG DẬT KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG CHO QUẢ THỜI TÁI TỤC

    Mặc dù người được gọi là người tháo vác đảm đang, nhưng nếu làm việc trọng đại thiết yếu mà chỉ đơn độc một mình thì cũng không thể làm cho việc đó thành tựu được. Như vị tư lệnh quân đội là người có tài thao lược và dũng cảm nhưng nếu chỉ đơn độc một mình lìa khỏi đoàn quân để chiến đấu, thì không thể nào tiêu diệt được địch quân để giành lấy chiến thắng được. Mà phải có binh sĩ tháp tùng thành đoàn quân hỗ trợ nhau mới có thể đánh bại được địch quân. Ngay cả các công việc khác cũng vậy, người có trình độ hiểu biết có thể thực hiện các công trình. Nhưng nếu chỉ có mỗi một mình mà không có người trợ thủ thì các công trình của mình cũng không thành tựu được.

    Cũng vậy, trong tất cả 52 sở hữu thì sở hữu tư được gọi là có sức mạnh dũng mãnh đặc biệt hơn các sở hữu khác. Trong bất cứ việc làm nào cho dù là thực hiện bằng thân, khẩu hay ý đi nữa, thì sở hữu tư hướng đạo sắp xếp và chịu trách nhiệm sai đúng theo chức năng của vai trò là "nghiệp". Và nó còn có phận sự cho quả trong thời tái tục lẫn thời bình nhật trong tương lai nữa.

    Trong việc cho quả cả 2 thời tái tục và bình nhật này, thì việc cho quả trong thời tái tục là vấn đề trọng yếu vì phải làm phận sự khởi đầu cho kiếp sống hiện bày thành nhân loại, chư thiên hay bàng sanh trong cõi tương ứng. Chính do nhân này, sở hữu tư là hiện thân của nghiệp phải có sở hữu khác nữa có sức mạnh vào trợ giúp mới có thể khởi đầu kiếp sống cho hiển lộ lên được để cho quả trong thời tái tục. Nếu không như vậy, thì không có thể cho quả trong thời tái tục được, chỉ cho quả trong thời bình nhật mà việc cho quả trong thời bình nhật không phải là vấn đề trọng yếu.

    Do đó, khi nhận xét đến quá trình của sở hữu tư câu sanh trong tâm phóng dật thì có sức mạnh cho quả trong thời tái tục được hay không? - Sẽ thấy được rằng: tâm phóng dật không có sở hữu bất thiện khác có sức mạnh đặc biệt như sở hữu tham, sân, tà kiến, ngã mạn, tật, lận, hối, hoài nghi vào hỗ trợ để hoàn thành chức năng của mình. Chỉ có sở hữu si phần là sở hữu bất thiện biến hành câu sanh cùng khắp với những hành động bất thiện. Do đó, mới khẳng định rằng: Tư câu sanh trong tâm phóng dật không có khả năng cho quả trong thời tái tục được, chỉ cho quả trong thời bình nhật mà thôi.

    Vì vậy, Ngài A xà lê Anuruddha mới trình bày rằng: "Etthākusalakammamuddhaccaritaṃ… yathārahaṃ vipaccati".

    Một lý khác nữa, lời thích giải về bất thiện nghiệp trong sớ giải Aṭṭhasālinī trình bày do tư trong tâm tương ưng hoài nghi không câu sanh với sở hữu thắng giải nên có thể cho quả trong thời tái tục được. Nhưng tại sao tư trong tâm tương ưng phóng dật có sở hữu thắng giải câu sanh mà không có khả năng cho quả trong thời tái tục được, điều này nên hiểu như thế nào? Trong sớ giải Aṭṭhasālinī giải rằng: Vì tư tương ưng trong tâm phóng dật không bị triệt tiêu bởi Sơ Đạo. Trong cách đáp này hàm ý rằng: Nếu tư tương ưng trong tâm phóng dật có khả năng cho quả trong thời tái tục được thì phải cho quả rơi vào 4 cõi khổ. Nếu lý giải như vậy, thì bậc đã chứng đắc Tu Đà Hườn cũng phải bị rơi vào 4 cõi khổ vì chưa triệt tiêu được tâm phóng dật. Như vậy sẽ phải phản bác lại Pāli rằng: "Catūhāpāyehi ca vippamutto". "Bậc Tu Đà Hườn đã triệt tiêu hoàn toàn 4 khổ cảnh", mà Phật ngôn thì không bao giờ có sự sai lệch. Do đó, mới khẳng quyết rằng tư tương ưng trong tâm phóng dật cho dù câu sanh với sở hữu thắng giải đi nữa, cũng không có khả năng cho quả trong thời tái tục được.

    Vấn đề này vẫn còn có thể hoài nghi rằng tư câu sanh trong tâm phóng dật cho dù không nằm trong nhóm bất thiện pháp bị sát tuyệt bởi Sơ Đạo nhưng cũng nằm trong nhóm bất thiện pháp bị sát tuyệt bởi Tứ Đạo. Do đó, sự kiện đề cập đến tư tương ưng trong tâm phóng dật không có khả năng cho quả trong thời tái tục, vì không nằm trong nhóm bất thiện pháp bị sát tuyệt bởi Sơ Đạo. Lý giải trên vẫn còn cảm thấy rườm rà quanh co, xin hãy dẫn chứng trình bày để cho hiểu thêm phần nào được nữa hay không?

    Đáp: Được. Như được hiển lộ trong bộ Đại Xứ (Paṭṭhāna) trình bày đến vấn đề vị thời nghiệp duyên (nānakkhaṇikakammapaccaya), Đức Phật Ngài thuyết gom các sở hữu tư có khả năng cho quả được nằm trọn vẹn trong duyên này. Tức Ngài thuyết phân tích tam đề theo 24 duyên. Khi Ngài thuyết đến dị thời nghiệp duyên, thì Ngài thuyết riêng biệt đến pháp bị Sơ Đạo sát tuyệt cùng với pháp bị sát tuyệt bởi Đạo cao và đạo thấp lẫn lộn nhau. Ngài không thuyết riêng biệt đến pháp bị sát tuyệt bởi Đạo cao, như được trình bày hiển lộ rằng: "Nānakkhaṇikā dassanena pahātabbā cetanā vipākānaṃ khandhānaṃ kaṭattā ca rūpānaṃ kammapacceyena paccayo". "Tư bất thiện bị sát tuyệt bởi Sơ Đạo sanh lên khác sát na, khác thời gian làm duyên trợ giúp ủng hộ cho 4 danh uẩn tái tục và sắc nghiệp tái tục bằng mãnh lực nghiệp duyên".

    Trong việc thuyết riêng biệt đến pháp bị sát tuyệt bởi Sơ Đạo thì tư tương ưng trong tâm phóng dật không nằm trong nơi đây. Vì vậy, mới hiểu được rằng bậc Tu Đà Hườn cũng vẫn còn tư tương ưng phóng dật, nhưng bậc Tu Đà Hườn không rơi vào khổ cảnh nữa. Do đó, mới khẳng định tư tương ưng trong tâm phóng dật không có khả năng cho quả trong thời tái tục.

    Lại nữa, tư tương ưng trong tâm phóng dật là pháp bị sát tuyệt bởi Tứ Đạo, nhưng đề cập trong phần đầu Đức Phật Ngài không thuyết riêng biệt đến bất thiện pháp bị sát trừ bởi Đạo cao trong dị thời nghiệp duyên. Do đó, có thể nói rằng: "Được hoặc không, tư tương ưng trong tâm phóng dật này, ngay cả trong thời bình nhật cũng không có khả năng cho quả?

    Đáp: Không nên nói như vậy. Cho dù không được Ngài thuyết trong dị thời nghiệp duyên nhưng cũng được Ngài thuyết trong bộ Phân Tích thứ 2 phẩm Vô Ngại Giải của Tạng Thắng Pháp rằng: "Yasmiṃ samaye akusalaṃ cittaṃ uppannaṃ hoti… upekkhāsahagataṃ uddhaccasampayuttaṃ rūpārammanaṃ vā… dhammārammaṇaṃ, yaṃ yaṃ vā panārabbha, tasmiṃ samaye phasso hoti… avikkhepo hoti, ime dhammā akusalā, imesu dhammesu ñāṇaṃ dhammapaṭisambhidā. Tesaṃ vipāke ñāṇaṃ atthapaṭisambhidā".

    Trong Pāli trên chỉ đề cập riêng biệt đến điều: "Tesaṃ vipāke ñāṇaṃ atthapaṭisambhidā" "Tuệ hiểu biết về dị thục quả của tâm tương ưng phóng dật gọi là nghĩa vô ngại giải". Do đó, mới khẳng quyết rằng: "Tư tương ưng trong tâm phóng dật này cho quả được trong thời bình nhật".

    *

    QUAN ĐIỂM CỦA TRƯỞN LÃO BUDDHADATTA VỀ VẤN ĐỀ TƯ TƯƠNG ƯNG TRONG TÂM PHÓNG DẬT VÀ LỜI LUẬN GIẢI

    Trong vấn đề này Ngài có quan điểm rằng tư tương ưng trong tâm phóng dật nếu sanh lên trong cơ tánh của phàm nhân thì có khả năng cho quả trong thời tái tục lẫn thời bình nhật. Riêng về các Ngài A xà lê Anuṭīka, A xà lê Paramatthadīpaṇīṭīkā, A xà lê Bhāsaṭīkā đều phản bác quan điểm của trưởng lão Buddhadatta bằng lý do giống như đã trình bày trên. Tức việc không cho quả được trong thời tái tục cũng hiện hữu rõ ràng trong dị thời nghiệp duyên. Còn việc cho quả trong thời bình nhật cũng đã hiễn lộ trong bộ Phân Tích phẩm Vô Ngại Giải (Paṭisambhida). Do đó, việc cho quả trong thời bình nhật mới được tất cả 12 tư bất thiện, cho nên Ngài A xà lê Anuruddha mới trình bày rằng: "Pavattiyaṃ pana sabbampi dvādasavidhaṃ sattākusalapākāni vipaccati" "Trong thời bình nhật cả 12 bất thiện nghiệp cho 7 tâm quả dị thục sanh lên nên được liệt vào cách trình bày chuẩn xác".

    Câu: "Sattakusalapākāni sabatthāpi kāmaloke rūpaloke ca yathāraṃ vipaccati" "Cho 7 dị thục quả bất thiện sanh lên trong 11 cõi dục giới và 15 cõi sắc giới (trừ cõi Vô Tưởng) theo tương ứng". Trong nơi đây từ Pāli "Sabbatthāpi" liên kết với từ "Kāmaloke" nghĩa là cho dù trong tất cả dục giới (11 cõi dục giới) ám chỉ việc cho quả của nhóm bất thiện nghiệp này trong thời tái tục dù chỉ cho quả trong 4 cõi khổ. Nhưng trong thời bình nhật thì cho quả trong khắp 11 cõi dục giới cả cõi vui lẫn cõi khổ.

    Từ "Yathārahaṃ": Nghĩa là theo tương ứng như theo tương ứng với môn và cảnh.

    Thích giải: Trong 11 cõi dục giới có đủ 5 môn cho nên cả 7 tâm dị thục quả bất thiện khởi hiện được. Còn ở cõi sắc giới chỉ có nhãn môn và nhĩ môn không có tỷ môn, thiệt môn và thân môn cho nên dị thục quả bất thiện nhãn thức, nhĩ thức, tiếp thâu, quan sát bắt cảnh sắc xấu, cảnh thinh xấu sanh lên được; còn dị thục quả bất thiện tỷ thức, thiệt thức, thân thức bắt cảnh khí, cảnh vị và cảnh xúc xấu không khởi lên được, cho nên mới dùng từ "Yatthārahaṃ vipaccati".

    Thích giải Pāli điều thứ 21 rằng: "Kāmāvacarakusalampi kāmasugatiyameva" … cho đến "Yathāraham vipaccati". Trong Pāli điều này trình bày đến cõi mà thiện nghiệp dục giới cho quả.

    Thích giải: 8 đại thiện sanh lên do thập phước nghiệp sự làm nền tảng. Các tâm này cho 8 tâm đại quả và 1 tâm quan sát thọ xã quả thiện, sắc nghiệp sanh lên trong thời tái tục trong phạm vi cõi vui dục giới. Trong 9 tâm tái tục này, thì 8 tâm đại quả cho quả tái tục sanh lên trong khắp 7 cõi vui dục giới; Còn tâm quan sát thọ xã quả thiện cho quả tái tục sanh lên được chỉ riêng cõi nhân loại và cõi Tứ Đại Thiên Vương. Nghĩa là người tái sanh làm nhân loại hay chư thiên được đều do năng lực của 1 trong 8 đại thiện nghiệp liên quan đến thập phước nghiệp sự. Nhưng nhóm nhân loại và chư thiên này thì có một số nhân loại sanh lên không toàn vẹn, như bị dị hình khuyến tật, điên khùng, câm, đui, điếc, ngu đần… Một số thì sanh lên được vẹn toàn. Và đời sống của chư thiên tầng Tứ Đại Thiên Vương thì có một số nhóm thực trạng không vẹn toàn như trong vấn đề vật thực và trú xứ, cả hình tướng cũng ghê sợ như nhóm ngạ quỷ. Một nhóm khác có tánh tình hung hản, một số nhóm thì có thực trạng vẹn toàn như hình tướng xinh đẹp. Còn chư thiên trên 5 tầng trời cao thì thực trạng viên mãn cả đời sống lẫn hình tướng.

    Sự khác biệt của nhân loại và chư thiên như đã trình bày trên đều liên quan đến tâm tái tục. Như nhân loại và chư thiên bậc thấp có thực trạng không viên mãn bởi vì có tâm quan sát thọ xã quả thiện làm việc tái tục, còn gọi là tâm tái tục vô nhân trong cõi vui. Còn nhân loại và chư thiên có thực trạng vẹn toàn chỉ khác nhau đôi chút về ân đức cụ túc (guṇasampatti) về ngũ quyền, như tín, tấn quyền… Bởi vì có 1 trong 8 tâm đại quả thuộc tương ưng trí hoặc bất tương ưng trí làm việc tái tục, gọi là tâm tái tục hữu nhân.

    Đối với quả nhận được trong thời bình nhật từ 8 nghiệp đại thiện, có 2 loại:

    1. Quả hữu nhân, gồm có 8 tâm đại quả.

    2. Quả vô nhân, gồm có 8 tâm quả thiện vô nhân.

    Trong cả 2 loại quả này thì 8 tâm đại quả là quả nhận được chỉ riêng biệt trong 7 cõi vui dục giới; có chức năng làm việc hộ kiếp và na cảnh. Còn 8 tâm đại quả thiện vô nhân là quả nhận được trong 11 cõi dục giới và 15 cõi sắc giới (trừ cõi Vô Tưởng) theo tương ứng với môn và cảnh. Tức trong cõi có đủ môn thì bắt được đủ cảnh nên tâm quả thiện vô nhân sanh lên được cả 8 tâm. Nếu trong cõi hoặc người không đủ môn thì bắt không đủ cảnh do tâm quả thiện vô nhân sanh lên được tùy theo môn hiện hữu và chức năng của tâm quả thiện vô nhân là được thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm…trong cảnh tốt. Điều này trình bày cho thấy không phải chỉ riêng nhân loại, chư thiên, Phạm Thiên mới có sự thấy, sự nghe cảnh tốt… mà ngay cả chúng sanh trong 4 cõi khổ cũng có cơ hội được thấy, nghe… cảnh tốt được cả. Đây cũng do mãnh lực của thiện hậu báo nghiệp. Như có một số nhóm bàng sanh có đời sống an lạc sung sướng, được thấy, nghe, thọ dụng… trong các pháp thù thắng và có cả hình tướng xinh đẹp. Các pháp này là quả thiện vô nhân và sắc nghiệp, sắc quý tiết do nghiệp tạo thuộc quả thiện hiển lộ trong thời bình nhật của nhóm người trong cõi vui dục giới và Phạm Thiên sắc giới. Do đó, Ngài A xà lê Anuruddha mới trình bày rằng: "Tathā pavattiyañca mahāvipākāni, ahetukavipākāni pana aṭṭhapi sabbatthāpi kāmaloke rūpaloke ca yathārahaṃ vipaccati".

    Trong câu: "Tathā pavattiyañca mahāvipākāni" này nếu trình bày đầy đủ thì phải trình bày rằng: "Kāmāvacarakusalaṃ pavattiyañca mahāvipākāni kāmasugatiyameva janeti" "Nghiệp thiện dục giới cho 8 tâm đại quả sanh lên trong thời bình nhật chỉ trong 7 cõi vui dục giới". Vì từ "Tathà" là bất biến phân từ dùng để chỉ cho biết ý nghĩa của từ "Kàmasugatiyameva" và "Janeti". Từ "Yathàrahaṃ" trong Pāli điều này cũng đuợc giải thích giống như từ "Yathàrahaṃ" trong Pāliđiều 20.

    Thích giải Pāli điều thứ 22 - 23 - 24 rằng: "Tatthāpi tihetukamukkaṭṭhaṃ kusalaṃ… pavatte ca ahetukavipākāneva vipaccati".

    Trong cả 3 điều Pāli này trình bày đến việc phân loại nghiệp đại thiện theo khác biệt nhau, như tam nhân bậc thượng… và trình bày riêng biệt đến quả của nhóm thiện nghiệp này cả trong thời tái tục lẫn thời bình nhật.

    Nghiệp đại thiện đã trình bày trên, khi phân tích theo nhân thì có 2 loại:

    1 - Thiện tam nhân: Khi tạo các việc làm như bố thí, trì giới, tu tiến… bằng thân, bằng ngữ hoặc bằng ý mà tâm thiện của người tạo trữ câu hành với nghiệp sở thuộc trí (kammassakatāñāṇa) hoặc tuệ quán (vipassanāñāṇa) thì loại thiện này được gọi là thiện tam nhân. Tức thiện câu sanh với nhân vô tham, vô sân, vô si.

    Chi pháp: 4 tâm đại thiện tương ưng trí.

    Sự hiện hữu của nghiệp đại thiện câu hành với nghiệp sở thuộc trí. Như người có trí hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp rằng: "Hành động thiện nhận được quả an vui, hành động ác gặt quả đau khổ, tất cả chúng sanh trên thế gian này có nghiệp là trọng đại, có nghiệp điều hành xếp đặt, khi hành động rồi thì phải gặt quả của hành động chắc chắn chỉ lâu hay mau mà thôi". Ví như ta lấy hòn đá liệng xuống hồ nước thì sẽ thấy rõ nước tách ra dợn sóng thành mỗi vòng tròn lan rộng ra cho tới cuối bờ hồ, rồi quay trở lại đúng ngay chổ ta đã liệng hòn đá xuống. Nếu hòn đá nhỏ thì mỗi dợn sóng sẽ đi và quay trở lại lâu hơn; còn hòn đá to sức nặng của hòn đá nhiều thì mỗi dợn sóng lan tỏa ra và lập tức quay trở lại nhanh chóng. Điều so sánh này cho thấy hành động dù tốt hoặc xấu của tất cả chúng sanh khi đã làm rồi thì không thể mất đi đâu được cả. Chắc chắn phải gặt quả không sớm thì muộn tựa như những dợn sóng lan ra rồi quay về chổ cũ.

    Đối với việc gặt quả nhanh hay chậm cũng do chủ tâm (tư) nổ lực của người hành động và đức độ hay phẩm hạnh hoặc thực hành pháp của người nhận lãnh hành động. Người hiểu biết về vấn đề như vừa trình bày trên được gọi là người có sở nghiệp thuộc trí. Do đó, việc tạo trữ thiện pháp sai biệt của nhóm người này mới được liệt vào thiện tam nhân.

    Sự hiện hữu của nghiệp đại thiện câu hành với tuệ quán như người có trí hiểu rằng: "Tất cả pháp thế gian này dù hữu thức hay vô thức cũng chỉ là danh sắc mà thôi. Danh sắc này là pháp luôn sanh diệt chúng nằm trong định luật vô thường, khổ, vô ngã. Do đó người bố thí cũng như người thọ thí chỉ là danh sắc có thực tính sanh diệt chi phối bởi vô thường, khổ, vô ngã. Vật thí cũng chỉ là sắc pháp có thực tánh sanh diệt vô thường, khổ, vô ngã. Thiện tâm sanh lên nơi ta cũng là danh pháp có thực trạng vô thường, khổ, vô ngã. Nhưng lại có điều khác là cho dù thiện tâm sanh diệt mỗi sát na. Nhưng mãnh lực của thiện tâm đó không tiêu mất mà tiềm tàng dính theo cơ tánh của người tạo phước, khi có cơ hội thì cho quả hiển lộ ngay kiếp này lẫn kiếp sau. Thiện tâm sanh lên thường làm cho người đó minh mẫn, an vui không nhiệt não.

    Tựa như người chịu tốn tiền để mua nước tắm, trong lúc tắm nuớc ướt cả mình rồi chảy thấm hết xuống đất. Tuy biết nước đó không tồn tại sau khi tắm, nhưng để tẩy rửa sự nhơ nhớt và làm cho thân thể có trạng thái tươi tỉnh mát mẻ họ vẫn bằng lòng mua nước để tắm hằng ngày. Điều này như thế nào thì mãnh lực của thiện tâm sanh lên rồi diệt đi theo mỗi sát na cũng như thế đó. Người hiểu biết sự việc như đã đề cập trên được gọi là người có tuệ quán và việc làm sai biệt của nhóm người này được liệt vào thiện tam nhân.

    Việc kiến tạo các thiện pháp câu hành với tuệ quán (Vipassanāñāṇa) được liệt vào thiện pháp tối thắng. Hàng Phật Giáo đồ thuộc cư sĩ hay xuất gia nên luôn tinh cần làm cho việc phước của mình câu hành với tuệ quán hoặc nghiệp sở thuộc trí để nhận được quả quảng đại vô lượng cả trong kiếp này lẫn kiếp vị lai.

    2 - Thiện nhị nhân: Khi tạo các thiện pháp như bố thí, trì giới, tu tiến… bằng thân, ngữ hoặc ý mà thiện tâm của người đó không câu hành với nghiệp sở thuộc trí hoặc tuệ quán. Loại thiện này được gọi là thiện nhị nhân. Tức thiện câu sanh với nhân vô tham, vô sân thiếu nhân vô si.

    Chi pháp: 4 tâm đại thiện bất tương ưng trí.

    Sự hiện hữu của loại đại thiện này, không chỉ có riêng biệt trong hàng Phật Giáo đồ mà ngay cả trong các tôn giáo khác hoặc một vài nhóm dân tộc lạc hậu, bàng sanh cũng vẫn có thiện tâm đó sanh lên. Bởi thiện pháp bao gồm hành động, lời nói, suy nghĩ thiện. Thiện pháp của người tạo tác như đã trình bày trên, không có quán xét về nghiệp sở thuộc trí hoặc tuệ quán chi cả. Chỉ làm để được lợi ích trước mắt hoặc làm theo bổn phận, phong tục tập quán hay bị người ép buộc phải làm. Như trẻ con chưa biết gì về vấn đề nhân quả của việc làm phước, khi người lớn sai biểu đặt bát cúng dường, đảnh lễ chư Tăng thì chỉ vâng lời làm theo mà thôi.

    Lại nữa, việc làm thiện của người không phải là trẻ con nhưng lại là người cố chấp trong Phật Giáo. Vì thế thiện tâm của họ sanh lên tầm thường thuộc thiện nhị nhân. Bởi họ thiếu hiểu biết về Phật Giáo. Đặc biệt nhất là về Thắng Pháp và chính họ cũng không sẵn lòng quan tâm chuyên cần học hỏi để hiểu về Thắng Pháp. Ngay trong lúc bố thí, xuất gia tỳ kheo, tu nữ cũng như lúc tu tiến Chỉ Tịnh hoặc Minh Sát nghiệp xứ thì thực trạng hiện hữu của nhóm người này gần như dính liền với ái, mạn, kiến. Cho dù có thái độ chỉnh tề, trang nghiêm đi nữa cũng chỉ đẩy đưa theo thực trạng bên ngoài. Nói theo phương diện Kinh Tạng thì có thể là được xem là hoàn chỉnh. Nhưng nói theo phương diện Thắng Pháp thì coi như không hoàn chỉnh vì là người có tâm vẫn đục bợn nhơ do động lực của ái, mạn, kiến. Vì vậy, việc làm thiện của nhóm người này mới được liệt vào thiện nhị nhân.

    *

    PHÂN TÍCH THIỆN TAM NHÂN NHỊ NHÂN THEO BẬC THƯỢNG & HẠ

    Thiện tam nhân và thiện nhị nhân như đã đề cập được phân tích ra thành 2 loại:

    1. Thiện tam nhân bậc thượng - Thiện nhị nhân bậc thượng.

    2. Thiện tam nhân bậc hạ - Thiện nhị nhân bậc hạ.

    * Sự hiện hữu của thiện tam nhân và thiện nhị nhân bậc thượng như khi người tạo trữ các việc phước về bố thí, trì giới, tu tiến… trước khi làm cũng như sau khi làm thành tựu rồi mà tâm của người đó không chen lẫn bất thiện. Như trước khi khởi sự làm người đó chủ tâm và sẳn lòng làm việc không thối chí mặc dù đang hoặc sẽ phải đối mặt với khó khăn, nhọc nhằn, vất vả. Như vậy gọi là tư tiền của người đó được thanh tịnh.

    Khi đã làm các việc thiện thành tựu hoàn tất rồi thì hân hoan vui thích không nghĩ đến khó khăn vất vả hoặc tốn kém mà chỉ thỏa thích trong công việc của mình đã làm. Như vậy, gọi là tư hậu của người đó được thanh tịnh. Do nhân này, thiện thí, thiện giới hoặc thiện tu tiến sanh lên dù là thiện tam nhân hay thiện nhị nhân đi nữa cũng được liệt vào thiện bậc thượng (ukkaṭṭhakusala).

    * Người tạo các việc phước như bố thí, trì giới, tu tiến… trước khi làm cũng như sau khi làm thành tựu rồi mà tâm có bất thiện chen lẫn vào. Như trước khi khởi sự làm người đó không chủ tâm sẵn lòng chỉ làm bằng sự gượng ép bắt buộc. Hoặc do mưu cầu lợi ích, danh dự trong xã hội nên tranh nhau làm. Như vậy, gọi là tư tiền của người đó không thanh tịnh.

    Khi người đó làm các việc thiện thành tựu hoàn tất rồi, thì không hoan hỷ ngược lại còn bực bội sầu muộn bởi nghĩ đến sự mệt nhọc và hối tiếc tiền của đã chi tiêu vào việc phước. Hoặc nếu mưu cầu lợi lộc trong xã hội được thành tựu như ý muốn thì hoan hỷ vừa lòng, bằng ngược lại không như ý muốn thì thất vọng buồn phiền. Các việc này gọi là tư hậu không thanh tịnh. Do nhân này, thiện thí, thiện giới hoặc thiện tu tiến sanh lên, dù là thiện tam nhân hay thiện nhị nhân đi nữa cũng được liệt vào là thiện bậc hạ (omakakusala).

    Trong 2 loại tư này (tư tiền và tư hậu) là điều kiện để khẳng định thiện bậc thượng hoặc bậc hạ. Tư hậu quan trọng hơn tư tiền bởi vì tư hậu là tư sanh lên sau khi làm việc thiện hoàn tất. Vì vậy, cho dù tư tiền không thanh tịnh nhưng tư hậu thanh tịnh thì được liệt vào thiện bậc thượng. Hay cho dù tư tiền thanh tịnh nhưng nếu tư hậu không thanh tịnh thì cũng được liệt vào thiện bậc hạ .

    *

    PHÂN TÍCH THIỆN BẬC THƯỢNG THIỆN BẬC HẠ THEO TƯ HẬU HẬU

    Từ "Aparāparacetanā" "tư hậu hậu" ám chỉ đến tư thiện hoặc bất thiện sanh lên sau khi tư hậu đã diệt trong thời gian một ngày hoặc một tháng… Các tư này được liệt vào là tư hậu hậu. Nếu là thiện khi suy nghĩ đến bố thí, trì giới, tu tiến của mình đã tạo qua nhiều ngày, nhiều tháng mà vẫn còn hoan hỷ. Như tin tưởng vững chắc vào thiện pháp của mình và có trí tuệ thấy được lợi ích thiện pháp của mình sanh khởi thường xuyên, thì như vậy chính tư hậu hậu thiện này được liệt vào thiện bậc thượng. Nếu như tư hậu hậu thiện khi nhớ đến bố thí, trì giới, tu tiến của mình làm trong thời gian tiếp theo sau mà không vừa lòng, hối tiếc, thất vọng hoặc hoan hỷ thỏa thích dính mắc do ái hoặc tự mãn trong tâm rằng: "Ta tạo phước nhiều hơn người khác". Đó là hiện thân của ngã mạn, thì như vậy chính tư hậu hậu thiện này được liệt vào thiện bậc hạ.

    Vì vậy, thiện tam nhân bậc thượng và bậc hạ; thiện nhị nhân bậc thượng và bậc hạ. Cả 4 loại này, khi phân tích theo tư hậu hậu thì có 4:

    1- Thiện tam nhân bậc thượng thượng. Thiện nhị nhân bậc thượng thượng.

    2- Thiện tam nhân bậc thượng hạ. Thiện nhị nhân bậc thượng hạ.

    3- Thiện tam nhân bậc hạ thượng. Thiện nhị nhân bậc hạ thượng.

    4- Thiện tam nhân bậc hạ hạ. Thiện nhị nhân bậc hạ hạ.

    Sự diễn tiến của 4 tâm thiện tam nhân và 4 tâm thiện nhị nhân như sau:

    * Vào sát na tư tạo phước câu sanh với 3 nhân khởi hiện, gọi là thiện tam nhân.

    - Vào sát na tư hậu thiện và tư hậu hậu cũng thiện khởi hiện diễn tiến thanh tịnh không chen lẫn bất thiện, gọi là bậc thượng thượng.

    - Vào sát na tư hậu thiện mà tư hậu hậu bất thiện khởi hiện, gọi là bậc thượng hạ.

    - Vào sát na tư hậu bất thiện mà tư hậu hậu thiện khởi hiện, gọi là bậc hạ thượng.

    - Vào sát na tư hậu bất thiện và tư hậu hậu cũng bất thiện khởi hiện, gọi là bậc hạ hạ.

    * Vào sát na tư tạo phước câu sanh với 2 nhân khởi hiện thiếu nhân vô si, gọi là thiện nhị nhân.

    - Vào sát na tư hậu thiện và tư hậu hậu cũng thiện khởi hiện diễn tiến thanh tịnh không chen lẫn bất thiện, gọi là bậc thượng thượng.

    - Vào sát na tư hậu thiện mà tư hậu hậu bất thiện khởi hiện, gọi là bậc thượng hạ.

    - Vào sát na tư hậu bất thiện mà tư hậu hậu thiện khởi hiện, gọi là bậc hạ thượng.

    - Vào sát na tư hậu bất thiện và tư hậu hậu cũng bất thiện khởi hiện, gọi là bậc hạ hạ.

    *

    TRÌNH BÀY VIỆC CHO QUẢ CỦA THIỆN TAM NHÂN BẬC THƯỢNG

    - Việc cho quả của thiện tam nhân bậc thượng trong thời tái tục được 4 tâm đại quả tương ưng trí, làm việc tái tục tam nhân. Ám chỉ cho quả sanh làm nhân loại hoặc chư thiên bậc thượng. Còn trong thời bình nhật cho 8 tâm quả thiện vô nhân và 8 tâm đại quả. Tổng cộng 16 tâm quả này muốn nói đến, khi được sanh làm nhân loại hoặc chư thiên bậc cao thì thường nhận được các cảnh tốt, như thấy, nghe… như ý.

    - Việc cho quả của thiện tam nhân bậc thượng thượng và thiện tam nhân bậc thượng hạ. Khi nói theo quan điểm pháp nghĩa (Dhammādhiṭṭhāna) cho quả giống như thiện tam nhân bậc thượng, cả trong thời tái tục lẫn thời bình nhật. Nhưng nói theo quan điểm nhân sinh (puggalàdhiṭṭhàna) thì khác nhau đôi chút. Như quả nhận được từ thiện tam nhân bậc thượng thượng thù thắng hơn quả của thiện tam nhân bậc thượng. Còn quả nhận được từ thiện tam nhân bậc thượng hạ thì thấp kém hơn quả của thiện tam nhân bậc thượng.

    - Việc cho quả của thiện tam nhân bậc hạ và thiện nhị nhân bậc thượng. Cả 2 trong thời tái tục cho được 4 tâm đại quả bất tương ưng trí làm việc tái tục nhị nhân. Ám chỉ đến cho quả sanh lên làm nhân loại hoặc chư thiên bậc trung. Còn trong thời bình nhật cho được 8 quả thiện vô nhân và 4 tâm đại quả bất tương ưng trí. Tổng cộng 12 tâm quả này muốn nói đến khi được sanh làm nhân loại hoặc chư thiên bậc trung thì thường nhận được cảnh tốt trung bình như thấy, nghe …

    - Việc cho quả của thiện tam nhân bậc hạ thượng, thiện tam nhân bậc hạ hạ, thiện nhị nhân bậc thượng thượng và thiện nhị nhân bậc thượng hạ. Cả 4 khi nói theo quan điểm pháp nghĩa thì cho quả giống như thiện tam nhân bậc hạ và thiện nhị nhân bậc thượng, cả trong thời tái tục lẫn thời bình nhật. Nhưng khi nói theo quan điểm nhân sinh thì khác nhau đôi chút. Như quả nhận được từ thiện tam nhân bậc hạ thượng và thiện nhị nhân bậc thượng thượng cả 2 thường thù thắng hơn quả nhận được từ thiện tam nhân bậc hạ hạ và thiện nhị nhân bậc thượng hạ. Còn quả nhận được từ thiện tam nhân bậc hạ hạ và thiện nhị nhân bậc thượng hạ, cả 2 thường cho quả thấp kém hơn nhận được từ thiện tam nhân bậc hạ và thiện nhị nhân bậc thượng.

    - Việc cho quả của thiện nhị nhân bậc hạ trong thời tái tục cho được tâm quan sát quả thiện vô nhân làm việc tái tục vô nhân. Ám chỉ cho quả sanh làm nhân loại hoặc chư thiên bậc thấp. Như cho quả sanh làm nhân loại khuyết tật: đui, điếc, câm, điên khùng… hoặc cho quả sanh làm chư thiên đoạ lạc (vinipātikāsurā) được liệt vào nhóm chư thiên A Tu La. Còn trong thời bình nhật cho được 8 quả thiện vô nhân nên chỉ nhận được các cảnh tốt thường mà thôi, như được thấy, nghe…

    - Việc cho quả của thiện nhị nhân bậc hạ thượng và thiện nhị nhân bậc hạ hạ. Cả 2 khi nói theo quan điểm pháp nghĩa thì cho quả giống như thiện nhị nhân bậc hạ, cả trong thời tái tục lẫn thời bình nhật. Nhưng khi nói theo quan điểm nhân sinh thì cho quả khác nhau đôi chút. Như việc nhận được quả từ thiện nhị nhân bậc hạ thượng thì tốt hơn quả của thiện nhị nhân bậc hạ. Quả nhận được từ thiện nhị nhân bậc hạ hạ thì thấp kém hơn quả của thiện nhị nhân bậc hạ.

    Lại nữa, tất cả tâm thiện như thiện tam nhân bậc thượng… như đã trình bày trên, nếu câu sanh với dục, cần, tâm, trí tuệ thì pháp nào là trưởng thì thiện đó cho quả đặc thù hơn loại thông thường. Ám chỉ đến địa vị, quyền thế, tùy tùng đầy đủ, màu da xinh đẹp, trường thọ, sức khỏe, trí nhớ, trí tuệ viên mãn theo thích ứng với loại thiện đó.

    Thích giải trong kệ ngôn Pāli điều thứ 25 - 26 trình bày đến quan điểm của một số vị A xà lê rằng:

    "Asaṇkhāraṃ sasaṇkhāraṃ… cho đến "Yathāsambhavamuddise".

    Việc cho quả của thiện dục giới như thiện tam nhân bậc thượng… như đã trình bày trên thuộc Samànavàda tức quan điểm đồng nhất của các vị A xà lê hiểu biết thông thạo về pháp thực tánh như Ngài A xà lê Anuruddha…

    Đối với Kecivāda tức quan điểm của một số vị A xà lê như trưởng lão Mahādatta trú ngụ tại Moravapī trong xứ Laṅka (Tích Lan) đề cập rằng:

    "Nghiệp thiện vô trợ không cho quả hữu trợ và nghiệp thiện hữu trợ cũng không cho quả vô trợ".

    Do đó, nếu tính số lượng dị thục quả của thiện dục giới theo Kecivāda thì có như sau:

    1* . 2 tâm thiện tam nhân bậc thượng vô trợ cho 12 quả là 8 tâm quả thiện vô nhân và 4 tâm đại quả vô trợ.

    2* . 2 tâm thiện tam nhân bậc thượng hữu trợ cho 12 quả là 8 tâm quả thiện vô nhân và 4 tâm đại quả hữu trợ.

    3* . 2 tâm thiện tam nhân bậc hạ vô trợ và 2 tâm thiện nhị nhân bậc thượng vô trợ cho 10 quả là 8 tâm quả thiện vô nhân và 2 tâm đại quả bất tương ưng trí vô trợ.

    4* . 2 tâm thiện tam nhân bậc hạ hữu trợ và 2 tâm thiện nhị nhân bậc thượng hữu trợ cho 10 quả là 8 tâm quả thiện vô nhân và 2 tâm đại quả bất tương ưng trí hữu trợ.

    5* . 2 tâm thiện nhị nhân bậc hạ vô trợ và 2 tâm thiện nhị nhân bậc thượng hữu trợ cho 8 tâm quả thiện vô nhân.

    (Đối với quả thiện vô nhân thì không tính vào tâm vô trợ hoặc tâm hữu trợ. Do đó, mới là quả của tất cả tâm thiện được).

    Trình bày số lượng dị thục quả của thiện dục giới theo Samānavāda  Kecivāda như sau:

    THIỆN DỤC GIỚI

    Số lượng dị thục quả theo Samāvāda

    Số lượng dị thục quả theo Kecivāda

    Tam nhân bậc thượng:

    - 2 Vô trợ
    - 2 Hữu trợ

    16

    12

    Tam nhân bậc hạ và Nhị nhân bậc thượng:

    - 4 Vô trợ
    - 4 Hữu trợ

    12

    10

    Nhị nhân bậc hạ:

    - 2 Vô trợ
    - 2 Hữu trợ

    8

    8

    TRÌNH BÀY LUẬN ĐIỂM CỦA KECIVĀDA

    Trong sự việc dị thục quả vô trợ hoặc hữu trợ cũng liên quan đến nghiệp làm nhân. Như nghiệp vô trợ thì dị thục quả nhận được trong kiếp sau trở đi là vô trợ. Nếu nghiệp hữu trợ thì dị thục quả nhận được trong kiếp sau trở đi là hữu trợ.

    Ví như ta lấy gương soi mặt, gương mặt trong gương là phản ảnh khuôn mặt của chính ta. Khi ta lay động thì bóng trong gương cũng lay động.

    Chính do nhân này, nghiệp thiện vô trợ mới không cho quả hữu trợ mà chỉ cho quả vô trợ. Ngược lại nghiệp hữu trợ cũng sẽ không cho quả vô trợ mà chỉ cho quả hữu trợ.

    *

    TRÌNH BÀY VIỆC LUẬN GIẢI VỀ KECIVĀDA

    Theo quan điểm của trưởng lão Mahādatta thuộc quan điểm của một số vị A xà lê Keci thì các vị A xà lê như Ngài Anuruddha… không tán thành. Bởi các tâm quả này khi nói theo phận sự thì làm phận sự tái tục, hữu phần, tử, na cảnh và sự thấy… cho đến quan sát. Lúc làm phận sự tái tục, hữu phần, tử thì có 1 trong 3 pháp nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng làm cảnh. Nếu cảnh nghiệp, nghiệp tướng, thú tướng sanh lên không nương vào hành vi của chính mình hoặc của người khác thì tâm tái tục, hữu phần, tử thuộc tâm vô trợ. Do đó, cho dù tâm tái tục, hữu phần, tử là dị thục quả của nghiệp quá khứ. Nhưng việc trở thành vô trợ hoặc hữu trợ của tâm quả không liên quan đến nghiệp quá khứ, chỉ liên quan đến hành vi của mình hoặc của người khác mà thôi.

    Còn việc trở thành vô trợ hay hữu trợ của tâm quả làm phận sự na cảnh, thì Ngài A xà lê Mūlaṭīkā đã trình bày trong "Vipākapadavaṇṇanā" rằng: "Hầu như diễn tiến do liên quan đến đổng lực sanh trước", tức đổng lực sanh lên thuộc vô trợ thì tâm na cảnh cũng thuộc vô trợ. Nếu đổng lực khởi hiện thuộc hữu trợ thì tâm na cảnh cũng thuộc hữu trợ. Do đó, dù cho tâm na cảnh là quả của nghiệp quá khứ, nhưng việc trở thành vô trợ hoặc hữu trợ thì không liên quan đến nghiệp quá khứ mà phần nhiều liên quan đến tâm đổng lực sanh trước.

    Đối với tâm nhãn thức,… cho dù là quả của nghiệp quá khứ nhưng điều trọng yếu khi sanh lên phải nương vào nhân tiên quyết. Như tâm nhãn thức sanh lên được phải nương vào 4 nhân như: Nhãn thanh triệt, cảnh sắc, ánh sáng, tác ý. Nếu đủ cả 4 nhân này thì tâm nhãn thức tự động sanh lên mà không một ai có thể cưỡng ép ngăn cản không cho khởi hiện được. Nhưng nếu không đủ 4 nhân thì dù cho có ai đến cưỡng bức tâm nhãn thức cũng không khởi hiện được. Do đó, nên không thể nói được rằng: "Tâm nhãn thức,… thuộc vô trợ hay hữu trợ được.

    Còn tâm tiếp thâu, tâm quansát bắt buộc phải sanh lên theo sau tâm nhãn thức diễn tiến theo quy luật thực tánh cố nhiên của tâm (Cittaniyāma). Vì vậy, nên không thể nói rằng: "tâm tiếp thâu và tâm quan sát thuộc vô trợ hay hữu trợ". Do đó, các Ngài A Xà Lê Anuruddha… mới đặt tên cho quan điểm của Ngài trưởng lão Mahādatta là Kecivāda (lời nói chưa thể chấp nhận làm chuẩn mực được).

    Thích giải Pāli điều 27 … điều 35 trình bày đến việc cho quả của thiện nghiệp sắc giới.

    Việc trình bày đến cơ sở hệ quả của thiện nghiệp sắc giới cần phải hiểu theo Thắng Pháp Tập Yếu Luận (abhidhammatthasaṇgaha) đã trình bày trong phần đầu. Còn việc diễn tiến theo hy thiểu (paritta), trung bình (majjhima), vô lượng (paṇīta) của thiện nghiệp sắc giới thường diễn tiến do mãnh lực của 2 pháp:

    1. Bốn trưởng: Việc hình thành thiền hy thiểu, trung bình, vô lượng liên quan đến pháp trưởng. Như thông thường người tu tiến Chỉ Tịnh cho đến khi đắc thiền thì dục, cần, tâm, trí tuệ của người đó phải đạt đến lớn mạnh (trưởng), khi sát na đắc thiền sanh lên phải có 1 trong 4 pháp trưởng câu sanh. Nếu các pháp trưởng này hiện hữu thuộc loại tầm thường thì thiền khởi lên thuộc loại thiền hy thiểu (parittajhāna) có mãnh lực yếu kém. Nếu 1 trong 4 pháp trưởng có sức mạnh vừa đủ thì thiền khởi hiện thuộc loại thiền trung bình (majjhimajhāna) có mãnh lực trung bình. Nếu 1 trong 4 pháp trưởng có sức mạnh mãnh liệt thì thiền khởi hiện thuộc loại thiền vô lượng (paṇitājhāna) có mãnh lực cao tột. Cho nên thiền giả khi được sanh lên cõi sắc giới thì sẽ sanh vào cõi tương ứng với thiền của mình đã đắc chứng với mãnh lực của thiền đó.

    2. Nhập thiền: Việc hình thành thiền hy thiểu, trung bình, vô lượng liên quan đến nhập thiền. Như thiền giả sau khi đắc thiền nếu không thường xuyên nhập thiền mà thỉnh thoảng mới nhập thiền một lần thì thiền đã đắc được liệt vào loại hy thiểu (paritta), nếu nhập thiền vừa chừng thì thiền đó thuộc loại trung bình (majjhima), nếu nhập thiền thường xuyên cho đến khi thuần thục thì thiền đó thuộc loại vô lượng (paṇīta).

    Việc hình thành thiền hy thiểu, thiền trung bình, thiền vô lượng theo 2 lý đã trình bày trên. Lý thứ nhất liên quan đến pháp trưởng là điểm chánh yếu để khẳng định trong việc hành giả sanh lên cõi sắc giới. Như người đắc sơ thiền loại hy thiểu thì sanh vào cõi Phạm Chúng Thiên; đắc thiền loại trung bình thì sanh vào cõi Phạm Phụ Thiên; đắc thiền loại vô lượng thì sanh vào cõi Đại Phạm Thiên.

    Còn lý thứ hai liên quan đến việc nhập thiền để làm nền tảng cho thiền giả tu tiến chứng đắc thiền bậc cao. Như thiền giả đắc chứng sơ thiền muốn đắc chứng nhị thiền phải nhập sơ thiền mà mình đã chứng đắc cho thuần thục đến khi đạt được 5 pháp tự tại (vàsi) thì mới có thể chứng đắc nhị thiền được. Nếu không thường xuyên nhập sơ thiền mà mình chứng đắc, thì sơ thiền đó được liệt vào loại hy thiểu không làm nền tảng cho chứng đắc nhị thiền được. Nếu thiền giả đắc sơ thiền mà thường xuyên nhập sơ thiền, nhưng chưa thuần thục 5 pháp tự tại thì sơ thiền đó được liệt vào loại trung bình cũng không làm nền tảng chứng đắc nhị thiền được. Nếu thiền giả đắc sơ thiền mà thường xuyên nhập sơ thiền cho đến khi thuần thục 5 pháp tự tại thì sơ thiền đó được liệt vào loại vô lượng, có thể làm nền tảng để chứng đắc nhị thiền được. Trong các thiền chứng tiếp theo cũng diễn tiến như vậy.

    Lại nữa, nhị thiền và tam thiền cho quả sanh lên cõi nhị thiền đã có giải thích nội dung trong phần "paṭisandhicatukka" trong Pāli điều thứ 12: "Tathādutiyajjhāna vipākaṃ tatiyajjhānavipākañca dutiyajjhānabhūmiyaṃ".

    Trong Pāli điều thứ 36 đề cập "Pañcamajjhānaṃ bhāvetvā vehapphalesu" "Khi đã đắc ngũ thiền thì cho quả sanh lên cõi Quãng Quả", dù thiền giả đắc chứng ngũ thiền loại hy thiểu, trung bình, vô lượng đi nữa thì chỉ duy nhất sanh vào cõi Quãng Quả và có tuổi thọ bằng với 500 đại kiếp.

    Thích giải: Quả của 3 loại ngũ thiền này nếu nói về cõi và tuổi thọ thì giống nhau nhưng quả thì khác nhau. Như nói về oai lực và thiên sản thì bậc chứng đắc ngũ thiền loại vô lượng luôn có oai lực và thiên sản cao tột thù thắng hơn loại trung bình và hy thiểu. Bậc chứng đắc ngũ thiền loại trung bình thì có oai lực và thiên sản thù thắng hơn loại hy thiểu. Còn bậc chứng đắc ngũ thiền loại hy thiểu thì có oai lực và thiên sản thuộc loại bình thường.

    Trong Pāli điều thứ 37 đề cập: "Tadeva saññāviragaṃ bhāvetvā asaññasattesu" "Chính do chứng đắc ngũ thiền ly tưởng (danh pháp) thì cho quả sanh vào cõi Vô Tưởng".

    Điều này có nghĩa là nhân loại và chư thiên thuộc hạng phàm nhân. Sau khi đắc chứng tứ thiền quán xét thấy tội lỗi của danh pháp rằng: "Khổ sai biệt như nhiệt não, phiền muộn, mê muội, bất an… cũng do nương sanh từ danh pháp. Danh pháp này tựa như vết thương, như cơn bệnh trầm kha. Người nào thoát khỏi khổ này thì có thể nói người đó đã hưởng được Níp Bàn hiện tại (diṭṭhadhammanibbāna)". Khi thiền giả có quan niệm như vậy, thì quán xét đến tội lỗi của tâm thức rằng: "Saññāgaṇdo saññārogo" "Danh pháp này tựa như vết thương, như cơn bệnh trầm kha". Sau khi suy xét xong, thiền giả đắc tứ thiền mới ước nguyện sanh hữu ly danh pháp. Từ đó bắt đầu tu tiến chú niệm biến xứ gió để chứng đắc ngũ thiền.

    Việc tu tiến ly danh pháp này, cho dù thiền giả đã chứng đắc tứ thiền bằng chú niệm vào bất cứ biến xứ nào đi nữa. Nhưng khi ước nguyện sanh hữu ly danh pháp thì phải chứng đắc ngũ thiền từ việc tu tiến thường xuyên chú niệm vào án xứ gió. Có một số vị A xà lê nói rằng: "Chứng đắc ngũ thiền từ sự chú niệm biến xứ (kasiṇa) hư không cũng được thành tựu lợi ích như vậy".

    Khi chứng đắc ngũ thiền thì tâm ngũ thiền sanh lên gọi là tu tiến ly ái tưởng (saññāvirāgabhāvanā). Khi mệnh chung từ cõi này thì sanh vào cõi Vô Tưởng bằng sắc tái tục. Còn trong thời bình nhật thì chính bọn sắc mạng quyền này gìn giữ kiếp sống và khi mệnh chung thì bọn sắc mạng quyền cũng làm phận sự tử. Riêng đối với Phạm Thể của các vị Phạm Thiên Vô Tưởng này thì có oai nghi khác nhau, tùy theo lúc mệnh chung mà thiền giả đắc ngũ thiền ly ái tưởng (saññāvirāga). Chết trong oai nghi nào thì sanh lên cõi Phạm Thiên Vô Tưởng với oai nghi đó. Nếu ngồi chết thì sanh lên làm Phạm Thiên Vô Tưởng có oai nghi ngồi; nếu đứng chết thì sanh lên có oai nghi đứng; nếu nằm chết thì sanh lên có oai nghi nằm.

    Thích giải Pāli điều thứ 38 rằng: "Anāgāmino pana suddhāvāsesu upajjanti" "Bậc A Na Hàm đắc chứng ngũ thiền thường sanh vào cõi Ngũ Tịnh Cư".

    Khi nhận xét riêng trong điều Pāli này sẽ làm cho hiểu được 2 khía cạnh: "Bậc chứng A Na Hàm khi mệnh chung từ cõi này thì sanh vào cõi Ngũ Tịnh Cư . Hoặc bậc chứng A Na Hàm đắc chứng thiền bất cứ là bậc nào khi mệnh chung thì cũng sanh vào cõi Ngũ Tịnh Cư". Nhưng trong nơi đây, phải nhận xét về khía cạnh trình bày đến vấn đề thiền và cõi theo tuần tự như đã trình bày trong phần đầu:

    - Cõi mà tâm sơ thiền cho quả là 3 cõi sơ thiền.

    - Cõi mà tâm nhị thiền và tâm tam thiền cho quả là 3 cõi nhị thiền.

    - Cõi mà tâm tứ thiền cho quả là 3 cõi tam thiền.

    - Cõi mà tâm ngũ thiền cho quả là 7 cõi tứ thiền.

    Nhưng trong 7 cõi tứ thiền là quả của ngũ thiền có đặc tánh không bằng nhau, được phân ra thành 3 loại. Như bậc đắc chứng ngũ thiền loại thông thường thì sanh vào cõi Quảng Quả không giới hạn người. Tức phàm tam nhân hoặc 3 Thánh Quả hữu học cũng được. Bậc đắc ngũ thiền ly ái tưởng (saññāvirāgabhāvanā) thì sanh vào cõi Vô Tưởng. Nhưng chỉ thuần túy là phàm tam nhân bởi vì thường nhiên các bậc Thánh không bao giờ tu thiền ly ái tưởng. 5 cõi thiền còn lại là cõi Ngũ Tịnh Cư cho dù cũng là quả của ngũ thiền, nhưng nếu nói về bậc mà sanh vào cõi Ngũ Tịnh Cư thì phải giới hạn. Tức phải là bậc A Na Hàm còn người ngoài ra thì không sanh vào cõi Ngũ Tịnh Cư được. Do đó, Ngài A xà lê Anuruddha mới trình bày rằng: "Anāgāmino pana suddhāvāsesu uppajjanti" và điều Pāli này nếu trình bày cho đầy đủ thì phải trình bày rằng: "Anāgāmino pana pañcamajjhānaṃ bhāvetvā suddhāvāsesu uppajjanti" "Chỉ khi nào bậc A Na Hàm chứng đắc ngũ thiền mới sanh vào cõi Ngũ Tịnh Cư".

    Trong sự kiện này có điều giới hạn rằng: Bậc sanh vào trong cõi Tịnh Cư được phải hội đủ ân đức . Như phải là bậc A Na Hàm chứng đắc ngũ thiền và phải có 1 trong 5 pháp quyền đặc biệt trội hơn mới sanh vào trong cõi Ngũ Tịnh Cư được. Nếu bậc A Na Hàm chứng đắc ngũ thiền, nhưng ngũ quyền thuộc loại thông thường thì các bậc A Na Hàm này sanh vào cõi Quảng Quả mà không sanh vào cõi Ngũ Tịnh Cư. Bởi vì trong cõi Ngũ Tịnh cư được viên mãn chắc chắn 4 đặc ân như:

    1. Bậc sanh vào 1 trong 5 cõi Ngũ Tịnh Cư, thì không sanh vào cõi sắc giới hoặc vô sắc giới khác nữa.

    2. Không tái sanh lại cõi mà mình đã cư ngụ.

    3. Khi mệnh chung từ cõi Tịnh Cư mà mình đã cư ngụ rồi thì không sanh vào cõi thấp hơn, mà phải sanh vào cõi cao hơn.

    4. Phải chứng đắc A La Hán ngay trong cõi Tịnh Cư.

    Riêng trong cõi Sắc Cứu Cánh có một ân đức khác nữa là bậc A Na Hàm mà cư ngụ trong cõi Sắc Cứu Cánh phải chứng đắc A La Hán trong cõi đó.

    Lại nữa, việc sanh vào cõi Tịnh Cư của bậc A Na Hàm đắc ngũ thiền thì có quy định rằng:"Nếu bậc A Na Hàm có tín quyền đặc thù hơn các quyền khác thì sanh vào cõi Vô Phiền Thiên; nếu có tấn quyền đặc thù hơn các quyền khác thì sanh vào cõi Vô Nhiệt Thiên; nếu có niệm quyền đặc thù hơn các quyền khác thì sanh vào cõi Thiện Kiến Thiên; nếu có định quyền đặc thù hơn các quyền khác thì sanh vào cõi Thiện Hiện Thiên; nếu có tuệ quyền đặc thù hơn các quyền khác thì sanh vào cõi Sắc Cứu Cánh".

    BẬC CHỨNG ĐẮC A NA HÀM KHÔNG SANH VÀO CÕI PHẠM THIÊN CÓ HAY CHĂNG?

    Bậc chứng đắc A Na Hàm rồi thì sanh vào cõi Phạm Thiên dù cho bậc A Na Hàm đó là bậc lạc quán (sukkhavipassaka) không có đắc thiền trước đi nữa. Nhưng khi gần mệnh chung thì thiền tự động sanh lên do nương vào mãnh lực của định. Vì thông thường thiền khởi hiện được bởi do sức mạnh trọng yếu của định. Mà kẻ thù của định là dục dục cái, còn các bậc A Na Hàm thì đã sát tuyệt tham ái nên không còn dục dục cái nữa. Do đó, định của bậc A Na Hàm có sức mạnh dũng mãnh đặc biệt có thể làm cho định sanh lên cấp kỳ.

    Hỏi: Bậc A Na Hàm lạc quán bị giết trong trong lúc đang ngủ, thì bậc A Na Hàm đó có thiền sanh lên hay không?

    Đáp: Thiền vẫn sanh lên được bởi bậc A Na Hàm hằng luôn có định. Loại định này có sức mạnh đạt đến cận định (upacārasamādhi).

    Lại nữa, bậc không còn ái dục thì tâm thường nhàm chán cõi còn liên quan đến ngũ dục. Tâm vị ấy hằng luôn hướng đến cõi ly ngũ dục. Vì vậy, cho dù bậc A Na Hàm có bất ngờ chấm dứt sanh mạng (bất đắc kỳ tử) nhưng trước khi tâm tử sanh lên thì tâm tương ưng thiền hiện khởi trước rồi mới mệnh chung. Khi mệnh chung thì sanh lên cõi Phạm Thiên tương ứng liên quan đến thiền chứng. Nếu sơ thiền hiện khởi thì sanh vào cõi sơ thiền, nếu nhị thiền hay tam thiền khởi hiện thì sanh lên cõi nhị thiện…

    Lại nữa, chư thiên cõi cao kể từ tầng Đạo Lợi… nếu chứng đắc A Na Hàm thì nhàm chán cõi mình đang cư ngụ vì có đầy đủ ngũ dục vây quanh. Nếu tuổi thọ của mình còn dài thì chú nguyện Như Ý Tử (Adhimuttikālaṃkiriyā) như chú nguyện rằng: "Xin cho danh uẩn quả và sắc nghiệp của tôi đừng sanh lên tiếp tục nữa". Thì hơi thở chấm dứt ngay mệnh chung sanh vào cõi Phạm Thiên là nơi an tịnh vắng lặng xa lìa ngũ dục. Khi gần mệnh chung thì tâm thiền làm việc tử khởi hiện cho bậc A Na Hàm lạc quán này, gọi là Đạo tương ưng thiền (maggasiddhijhāna).

    Thích giải Pāli điều thứ 39 trình bày đến việc cho quả của 4 thiện nghiệp vô sắc giới.

    Trong 4 thiện nghiệp vô sắc giới thì thiện nghiệp không vô biên xứ cho quả dị thục không vô biên xứ sanh vào cõi không vô biên xứ.

    Thiện nghiệp thức vô biên xứ cho quả dị thục thức vô biên xứ sanh vào cõi thức vô biên xứ.

    Thiện nghiệp vô sở hữu xứ cho quả dị thục vô sở hữu xứ sanh vào cõi vô sở hữu xứ.

    Thiện nghiệp phi tưởng phi phi tưởng xứ cho quả dị thục phi tưởng phi phi tưởng xứ sanh vào cõi phi tưởng phi phi tưởng xứ.

    Đây là việc thích giải dị thục quả sanh lên từ 4 thiện nghiệp vô sắc giới theo tuần tự, như Pāli trình bày rằng:

    "Yathākkāmaṃ uppajjati".

    *

    NGƯỜI SANH LÊN CÕI TỨ THIỀN BẰNG MÃNH LỰC CHO QUẢ TÁI TỤC CỦA THÔNG THIỆN ĐƯỢC HAY CHĂNG?

    Giải rằng: Thông thiện không cho quả tái tục được, bởi vì thông thiện khởi hiện được phải sau khi đã đắc ngũ thiền, cho nên mới hiện hữu trong vai trò là quả của ngũ thiền.

    Lại nữa, trong việc thị hiện thần thông (abhiññā) sai biệt, như thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông,… Các thông này là quả của thông thiện là loại quả được thành tựu hiển lộ. Chính 2 nguyên nhân này trình bày cho thấy thông thiện không cho quả tái tục được.

    Ngài A xà lê Anuruddha đã trình bày đến 1 loại nhân về vấn đề này trong bộ Nāmarūpapariccheda rằng:

    Samānāsevane laddhe Vijjamāne mahabbale

    Aladdhā tādisaṃ hetuṃ Abhiññā na vipaceati

    Thiện đáo đại có sức mạnh nhiều khi nhận được sự trợ giúp từ Tập Hành Duyên (asevanāpaccaya) rồi mới cho quả. Còn thông thiện thì không cho quả vì không có nhân trợ giúp từ Tập Hành Duyên.

    Việc trình bày nhân của Ngài A xà lê Anuruddha đến vấn đề thông thiện không có khả năng cho quả tái tục. Vì không đủ sức mạnh do không nhận được sự trợ giúp ủng hộ từ Tập Hành Duyên thì chưa chuẩn xác. Bởi vì sự kiện mà thông thiện không nhận được trợ giúp ủng hộ bằng mãnh lực Tập Hành Duyên cũng không phải là nhân trọng yếu về sức mạnh cho quả tái tục. Thông thường trong lộ hiện thông thì thông thiện chỉ sanh lên duy nhất 1 lần. Nhưng trong sát na đó cũng có thể hiện thông sai biệt được. Việc sanh lên của lộ hiện thông như sau: Hộ kiếp, hộ kiếp rúng động, hộ kiếp dứt dòng, khai ý môn, chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tộc, thông, hộ kiếp tiếp tục. Giống như việc khởi hiện của tâm thiền trong lộ đắc thiền (adhikammikajhānavithī) là: Hộ kiếp, hộ kiếp rúng động, hộ kiếp dứt dòng, khai ý môn, chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tộc, thiền, hộ kiếp tiếp tục. Trong lộ này thì chuẩn bị… cho đến chuyển tộc không là Tập Hành Duyên cho tâm thiền được. Nhưng tâm thiền này cũng đủ sức mạnh cho quả tái tục dù không nhận được sự trợ giúp ủng hộ bằng mãnh lực Tập Hành Duyên cũng vẫn có sức mạnh đặc biệt trong vai trò trọng nghiệp. Chúng ta thấy rằng, bậc A Na Hàm lạc quán khi cận tử thì thiền sanh lên và tâm thiền này chỉ khởi hiện 1 lần giống như lộ đắc thiền. Do đó, tâm thiền này cũng không nhận được sự trợ giúp ủng hộ từ Tập Hành Duyên, nhưng cũng vẫn có đủ sức mạnh cho quả để bậc A Na Hàm sanh lên cõi sắc giới được.

    *

    NỮ NHÂN ĐẮC THIỀN KHI MỆNH CHUNG SẼ ĐƯỢC SANH LÀM NHÓM PHẠM THIÊN NÀO?

    Đời sống trong cõi Phạm Thiên kể từ sơ thiền,… cho đến một cõi nào trong cõi Ngũ Tịnh Cư đều có 3 nhóm Phạm Thiên. Như nhóm Phạm Thiên cõi sơ thiền cũng có 3 là Phạm chúng thiên, Phạm Phụ Thiên, Đại Phạm Thiên. Trong 3 nhóm Phạm Thiên này thì Phạm Chúng Thiên và Phạm Phụ Thiên là 2 nhóm tùy chúng của Đại Phạm Thiên. Nữ nhân đắc sơ thiền thuộc phàm hoặc Thánh khi sanh vào một cõi nào trong cõi Phạm Thiên sơ thiền thì sẽ không thành Đại Phạm Thiên được mà chỉ là Phạm Chúng Thiên hay Phạm Phụ Thiên mà thôi. Nữ nhân đắc 8 hoặc 9 thiền chứng thuộc Phàm hoặc Thánh khi sanh vào một cõi nào tương ứng với thiền trong cõi Phạm Thiên thì cũng làm Phạm Thiên thuộc loại tùy tùng mà thôi. Cũng như nữ nhân sanh làm chư thiên cũng không làm chư thiên thủ lãnh, như không sanh làm Đức Trời Đế Thích hoặc Ma Vương được.

    Như Ngài A xà lê sớ giải trình bày trong (Sammohavinodanī) và sớ giải Tương Ưng Bộ Kinh rằng: "Itthiyopi pana ariyā vā anariyā api aṭṭasamāpattilābhiniyo brahmaparisajjesuyeva nibbattanti". "Dù cho nữ nhân đắc 8 thiền chứng thuộc Thánh hay Phàm cũng sanh làm Phạm Thiên thuộc hạ tùy chúng của Đại Phạm Thiên mà thôi’.

    "Yaṃ itthiṃ sakkattaṃ kareyya mārattaṃ kareyya brahmattaṃ kareyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjati, brahmattanti mahābrahmattaṃ adhippetaṃ"

    "Nương vào nhân nào để nữ nhân được sanh làm thiên chủ Đế Thích, Ma Vương hoặc Phạm Thiên, nhân đó thường không có".

    Nói đến Phạm Thiên ám chỉ Đại Phạm Thiên.

    Từ "Brahmaparisajjesu" trong Pāli điều thứ 1 thì Phạm Phụ Thiên cũng được xếp vào trong điều này, bởi vì Phạm Phụ Thiên cũng là tùy chúng của Đại Phạm Thiên. Ngay cả Đức Phật cũng từng gọi Phạm Phụ Thiên là "Brahmaparisā".

    Riêng trong Netti, Ngài đã thuyết rõ rằng: "Itthī mahābrahmā siya, netaṃ ṭhānaṃ vijjati" "Nương vào nhân nào mà nữ nhân đắc thiền sanh làm Đại Phạm Thiên nhân đó thường không có". Trong điều Pāli này chỉ rõ rằng: "Nữ nhân đắc thiền không sanh làm Đại Phạm Thiên được". Điều này trình bày cho thấy nữ nhân chỉ sanh làm 2 nhóm Phạm Thiên còn lại.

    Lại nữa, trong sự kiện mà nữ nhân không sanh làm Đại Phạm Thiên được. Bởi vì tứ trưởng của nữ nhân sanh khởi thường không có sức mạnh dũng mãnh như tứ trưởng của nam nhân. Do đó, mới khẳng định rằng thiền khởi lên với nữ nhân bất cứ là thiền nào đi nữa chỉ là thiền hy thiểu hoặc trung bình, không đạt đến thiền vô lượng được.

    Một lý khác nữa, giới tánh nữ được liệt vào giới tánh thấp kém hơn so với giới tánh nam cho nên mới không sanh làm Đại Phạm Thiên được, dù bất cứ trong cõi nào.

    *

    TRÌNH BÀY VIỆC SANH VÀO CÕI MÀ THIỀN GIẢ ƯỚC NGUYỆN DIỄN TIẾN THEO NĂNG LỰC CỦA ÁI TRƯỚC VÀ KHUYNH HƯỚNG

    Trong điều Pāli đã trình bày ở phần đầu: "Pathamajjhānaṃ parittaṃ bhāvetvā brahmaparisajjesu upbajjanti"...: "Khi tu tiến sơ thiền bậc thấp thì cho quả sanh vào cõi Phạm Chúng Thiên"… Việc trình bày như vậy, là ám chỉ đến việc diễn tiến thông thường của thiền chứng. Nhưng nếu thiền giả có ái trước (nikantitaṇhā) hoặc khuynh hướng (cetopaṇidhi) thì việc sanh vào cõi tương ứng với thiền chứng cũng không nhất địmh bởi do ái trước và khuynh hướng của mình.

    Từ "Nikantitaṇhā" (ái trước) ám chỉ đến sự ái luyến trong cõi mà mình đã từng tái sanh vào hằng nhiều kiếp.

    Từ "Cetopaṇidhi" (khuynh hướng) ám chỉ cho tâm ước muốn trong cõi đó, diễn tiến bỡi do năng lực của dục (chanda).

    - Như thiền giả là phàm nhân vào lúc cận tử có ái trước trong một cõi chư thiên nào khởi lên thì thiền chứng cũng hoại đi. Cho tới khi mệnh chung thì sanh vào cõi chư thiên đó, mà không sanh vào cõi Phạm Thiên được.

    - Nhân loại, chư thiên chứng đắc Tu Đà Hườn hoặc Tư Đà Hàm khi đắc thiền thường không còn ái trước hoặc khuynh hướng liên quan đến cõi vui dục giới. Bởi vì thiền chứng của các bậc Thánh kiên định hơn thiền chứng của phàm nhân. Vì vậy, thiền chứng của các Ngài không hoại được. Nên các Ngài sau khi mệnh chung sanh vào 1 trong những cõi Phạm Thiên từ thiền chứng của mình (trừ cõi Vô Tưởng và cõi Ngũ Tịnh Cư). Khi đã sanh làm Phạm Thiên cho dù chưa chứng đắc A Na Hàm cũng không sanh trở lại cõi vui dục giới nữa. Cho nên thiền 2 bậc Thánh Phạm Thiên này mới được gọi là thiền A Na Hàm.

    - Phàm nhân hoặc Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm thuộc nhân loại, chư thiên đã đắc 8 hoặc 9 thiền chứng. Nếu có khuynh hướng 1 trong những cõi Phạm Thiên nào ngoại trừ cõi Vô Tưởng và Cõi Tịnh Cư, thì khi mệnh chung sẽ sanh vào cõi Phạm Thiên mà mình ước muốn.

    - Nhân loại, chư thiên đắc chứng A Na Hàm và đắc chứng 8 hoặc 9 thiền chứng. Nếu có khuynh hướng trong một cõi Phạm Thiên nào ngoại trừ cõi Vô Tưởng. Khi mệnh chung thì sanh vào cõi Phạm Thiên mà mình ước muốn được như ý nguyện. Như bậc A Na Hàm nếu ước muốn sanh vào sơ thiền, cõi Tịnh Cư hoặc cõi vô sắc, thì sẽ sanh vào cõi mà mình ước muốn. Do đó, Đức Thế Tôn mới phán dạy rằng: "Ijjhati bhikkhave sīlavato cetopaṇīdhi visuddhatto" "Này các tỳ kheo! sự ước muốn của người có giới thường được thành tựu, vì là sự ước muốn của người có tâm thanh tịnh".

    - Đối với bậc Thánh Phạm Thiên Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm các bậc này đừng nói chi chỉ sanh vào cõi vui dục giới thôi cho dù cõi Phạm Thiên thấp hơn thiền chứng của mình cũng vẫn không sanh vào.

    - Bậc A Na Hàm sanh vào cõi Ngũ Tịnh Cư thì không sanh vào cõi Tịnh Cư thấp hơn. Không tái sanh trở lại trong cõi mà mình cư ngụ. Khi chưa chứng đắc A La Hán thì thường sanh lên cõi cao hơn theo tuần tự. Nếu chứng đắc A La Hán trong cõi nào thì Níp Bàn trong cõi đó. Đối với bậc A Na Hàm sanh vào cõi Sắc Cứu Cánh thì không sanh vào cõi khác nữa, và cũng không tái sanh lại cõi Sắc Cứu Cánh mà phải nhất định Níp Bàn trong cõi này.

    - Bậc Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm khi sanh vào cõi Quảng Quả và cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, nếu chưa chứng đắc A La Hán thì không sanh vào cõi khác mà phải sanh trở lại trong cõi đó cho đến khi đắc chứng A La Hán. Do đó, Ngài A xà lê Ṭīkā mới trình bày rằng:

    1. Vehapphale akaniṭṭhe Bhavagge ca patiṭṭhitā

    Na punāññattha jāyanti Sabbe ariyapuggalā

    2. Na puna tattha jāyanti Sabbepi suddhavāsikā

    Brahmalokagatā heṭṭhā Ariyā noppajjareti

    1- Các bậc Thánh mà sanh vào cõi Quảng Quả, cõi Sắc Cứu Cánh và cõi cao tột Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thì không sanh vào cõi khác nữa.

    2- Chư Phạm Thiên cõi Tịnh Cư không sanh trở lại trong cõi mà mình cư ngụ nữa. Các bậc Thánh sanh vào các cõi Phạm Thiên thì không sanh trở lại cõi thấp hơn.

    Thích giải kệ ngôn kết thúc như: "Itthaṃ mahaggataṃ paññaṃ…"

    Kệ ngôn này là câu kết thúc trong việc trình bày đến cơ sở hệ quả (pākatthāna) tức cõi là nơi mà 4 nghiệp cho quả như bất thiện nghiệp, thiện nghiệp dục giới, thiện nghiệp sắc giới, thiện nghiệp vô sắc giới. Và đề cập rằng: "Yathābhūmivavatthitaṃ,janeti sadisaṃ pākaṃ" "Cho quả theo tương ứng thiện của mình". Như:

    - Thiện sơ thiền cho quả dị thục sơ thiền sanh lên cõi sơ thiền.

    - Thiện nhị thiền cho quả dị thục nhị thiền sanh lên cõi nhị thiền.

    - Thiện tam thiền cho quả dị thục tam thiền sanh lên cõi nhị thiền.

    - Thiện tứ thiền cho quả dị thục tứ thiền sanh lên cõi tam thiền.

    - Thiện ngũ thiền cho quả dị thục ngũ thiền sanh lên cõi tứ thiền.

    - Thiện không vô biên xứ cho quả dị thục không vô biên xứ sanh lên cõi không vô biên xứ.

    - Thiện thức vô biên xứ cho quả dị thục thức vô biên xứ sanh lên cõi thức vô biên xứ.

    - Thiện vô sở hữu xứ cho quả dị thục vô sở hữu xứ sanh lên cõi vô sở hữu xứ.

    - Thiện phi tưởng phi phi tưởng xứ cho quả dị thục phi tưởng phi phi tưởng xứ sanh lên cõi phi tưởng phi phi tưởng xứ.

    Kệ ngôn như đã trình bày trên là kệ ngôn kết thúc việc thích giải về 4 cơ sở hệ quả (pākaṭṭhānacatukka).

    *

    THÍCH GIẢI ĐẶC BIỆT VỀ VIỆC CHO QUẢ CỦA THIỆN NHỊ THIỀN - THIỆN TAM THIỀN

    Khi nhận xét về cõi mà thiện nhị thiền và thiện tam thiền cho quả, thì cho quả chỉ cùng 1 cõi nhị thiền. Do đó, nếu nói theo qui luật thì người đắc nhị thiền loại vô lượng khi mệnh chung thì sanh vào cõi Biến Quang Thiên (Ābhassarābhūmi), người đắc tam thiền loại hy thiểu khi mệnh chung thì chỉ sanh vào cõi Thiểu Quang Thiên (Parittabhābhūmi), Như vậy, cũng còn hoài nghi rằng: "Tại sao người đắc tam thiền là thiền cao hơn nhị thiền mà lại nhận được quả thấp hơn nhị thiền, do nhân nào?"

    Giải rằng: Mãnh lực ân đức của thiện nhị thiền và thiện tam thiền đều ngang nhau cả về việc sanh lên và diệt chi thiền. Như thiền khởi hiện lần thứ 2 gọi là nhị thiền diệt Tầm; thiền khởi hiện lần thứ 3 gọi là tam thiền diệt Tứ. Sự khác biệt nhau như đã trình bày trên cũng do liên quan đến người chứ không phải khác nhau về ân đức. Như thiền giả là người độn căn (mandapuggala) thì việc hiện khởi của thiền chứng diệt chi thiền sẽ phân thành 2 như thiền vừa đề cập trên. Nếu thiền giả là bậc lợi căn (tikkhapuggala) thì thiền sanh khởi lên diệt chi thiền không phân ra thành 2 lần. Tức thiền khởi hiện lần thứ 2 gọi là nhị thiền có phận sự diệt Tầm Tứ. Thiền khởi hiện lần thứ 3 gọi là tam thiền có phận sự diệt hỷ. Thiền sanh lên lần thứ 4 gọi là tứ thiền có phận sự diệt lạc. Cho nên gọi là thiền sắc giới 4 bậc.

    Do nhân này, mãnh lực ân đức của nhị thiền và tam thiền mới có sự khác nhau. Nhưng nếu thiền giả là người độn căn như nhau thì người đắc nhị thiền loại vô lượng và đắc tam thiền loại vô lượng cho quả sanh vào cõi Biến Quang Thiên như nhau.

    Vì vậy, các học viên nên hiểu theo lời trình bày trên.

    Kết thúc việc trình bày nhóm 4 nghiệp trong chương 5.

    -ooOoo-

    Trang Website được thành lập và quản lý bởi các cận sự nam, cận sự nữ trong Phật Giáo. Mục đích nhằm lưu trữ, số hoá kinh sách và tài liệu Phật Giáo Nguyên Thuỷ - Theravāda.