Tứ Thánh Đế.
Khổ-Thánh-đế (Dukkha ariyasacca)
– Này chư tỳ-khưu! Khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là:
– Tái-sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ.
– Phải gần gũi, thân cận với người không thương yêu là khổ.
– Phải xa lìa người thương yêu là khổ.
– Mong muốn đừng có sinh, đừng có già, đừng có bệnh, đừng có chết, … mà không thể nào được như ý là khổ.
– Tóm lại, chấp-thủ trong ngũ-uẩn do tâm tham-ái và tà-kiến là khổ.
Nhân sinh Khổ-Thánh-đế (Dukkhasamudaya ariyasacca)
– Này chư tỳ-khưu! Nhân sinh khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là tham-ái, là nhân dắt dẫn tái-sinh, hợp với tham muốn, hài lòng, say mê trong các đối-tượng, đắm say trong kiếp sống.
Nhân sinh khổ-Thánh-đế ấy là:
Dục-ái (kāmataṇhā): Tham-ái trong 6 đối-tượng ái trong cõi dục-giới: sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái và pháp-ái.
Hữu-ái (bhavataṇhā): Tham-ái trong 6 đối-tượng ái hợp với thường-kiến, và tham-ái trong cõi sắc-giới và cõi vô-sắc-giới.
Phi-hữu-ái (vibhavataṇhā): Tham-ái trong 6 đối-tượng ái hợp với đoạn-kiến.
Diệt Khổ Thánh-đế (Dukkhanirodha ariyasacca)
– Này chư tỳ-khưu! Diệt khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là Niết-bàn, là pháp diệt tận được mọi dục-vọng do tâm tham-ái ấy không còn dư sót bằng 4 Thánh-đạo-tuệ, xả ly, từ bỏ chấp-thủ trong ngũ-uẩn, giải thoát khổ, không còn luyến ái, không còn dính mắc.
Pháp-hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế (Dukkhanirodhagaminī paṭipadā ariyasacca)
– Này chư tỳ-khưu! Pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
Tam-Tuệ-Luân Trong Tứ Thánh-Đế
Tam-tuệ-luân trong Khổ-Thánh-đế
Trí-tuệ-học biết Khổ-Thánh-đế (Saccañāṇa)
– Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhuñāṇa) thấy rõ khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ (ñāṇa) thấy rõ thật-tánh khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt (paññā) thấy rõ khổ sinh, khổ già… đã phát sinh, tuệ-minh (vijjā) thấy rõ, thấu-suốt hoàn toàn khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ (ālokañāṇa) diệt màn vô-minh che án khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp khổ-Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
“Thật-tánh tất cả các pháp (sắc-pháp, danh-pháp) trong tam-giới, ngoại trừ tâm tham-ái ra, đều là khổ-Thánh-đế (dukkhaṃ ariyasaccaṃ).”
Trí-tuệ-hành phận sự biết Khổ-Thánh-đế (Kiccañāṇa)
– Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng-suốt… đã phát sinh, tuệ-minh… đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp khổ-Thánh-đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
“Thật-tánh các pháp (sắc-pháp, danh-pháp) khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên biết rõ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññeyyaṃ).”
Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự biết Khổ-Thánh-đế (Katañāṇa)
– Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ- thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt… đã phát sinh, tuệ-minh… đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp khổ-Thánh-đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
“Thật-tánh tất cả các pháp (sắc-pháp, danh-pháp) khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên biết, thì đã biết rõ bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññātaṃ).”
Tam-tuệ-luân trong nhân sinh Khổ-Thánh-đế
Trí-tuệ-học biết nhân sinh Khổ-Thánh-đế (Saccañāṇa)
– Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn thấy rõ tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ thật-tánh ba loại tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt thấy rõ 108 loại tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát sinh, tuệ-minh thấy rõ, thấu- suốt nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ diệt màn vô-minh che án nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp nhân sinh khổ-Thánh-đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh ba loại tham-ái ấy là nhân sinh khổ- Thánh-đế (dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ).”
Trí-tuệ-hành phận sự diệt nhân sinh Khổ-Thánh-đế (Kiccañāṇa)
– Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt… đã phát sinh, tuệ-minh… đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp nhân sinh khổ-Thánh-đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
“Thật-tánh ba loại tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh- đế ấy là pháp nên diệt bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ pahātabbaṃ).”
Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự diệt nhân sinh Khổ-Thánh-đế (Katañāṇa)
– Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt… đã phát sinh, tuệ minh… đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp nhân sinh khổ-Thánh- đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
“Thật-tánh ba loại tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh- đế ấy là pháp nên diệt, thì đã diệt tận bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ-pahīnaṃ).”
Tam-tuệ-luân trong diệt Khổ-Thánh-đế
Trí-tuệ-học biết diệt Khổ-Thánh-đế (Saccañāṇa)
– Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn thấy rõ diệt khổ-Thánh- đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ diệt khổ-Thánh- đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt thấy rõ thật-tánh Niết-bàn đã phát sinh, tuệ-minh thấy rõ, thấu-suốt diệt khổ- Thánh-đế đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ diệt màn vô- minh che án diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp diệt khổ-Thánh-đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh Niết-bàn là pháp diệt khổ-Thánh-đế (dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ).”
Trí-tuệ-hành phận sự chứng ngộ diệt Khổ-Thánh-đế (Kiccañāṇa)
– Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ- thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt… đã phát sinh, tuệ-minh… đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp diệt khổ-Thánh-đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh Niết-bàn diệt khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên chứng ngộ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkha-nirodhaṃ ariyasaccaṃ sacchikātabbaṃ).”
Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự chứng ngộ diệt Khổ-Thánh-đế (Katañāṇa)
– Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt… đã phát sinh, tuệ-minh… đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp diệt khổ-Thánh-đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh Niết-bàn diệt khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ Niết-Bàn bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ sacchikataṃ).”
Tam-tuệ-luân trong pháp-hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế
Trí-tuệ-học biết pháp-hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế (Saccañāṇa)
– Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn thấy rõ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt thấy rõ thật-tánh của chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đã phát sinh, tuệ-minh thấy rõ, thấu-suốt pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ diệt màn vô-minh che án pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế (dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ).”
Trí-tuệ-hành phận sự tiến hành pháp-hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế (Kiccañāṇa)
– Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ- thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt… đã phát sinh, tuệ-minh… đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp-hành dẫn đến diệt-khổ- Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
“Thật-tánh Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên tiến hành để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvetabbaṃ).”
Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự tiến hành pháp-hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế (Katañāṇa)
– Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt… đã phát sinh, tuệ-minh…. đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp-hành dẫn đến diệt khổ- Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
“Thật-tánh Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên tiến hành, thì đã được tiến hành chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvitaṃ).”
Vai trò quan trọng của tam-tuệ-luân
– Này chư tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo Tam-tuệ-luân (trí-tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành), thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh-tịnh chưa phát sinh đến với Như-Lai.
– Này chư tỳ-khưu! Khi ấy Như-Lai chưa dám truyền dạy rằng: “Như-Lai chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi-giới chúng-sinh: nhân-loại, Vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma vương và phạm-thiên cả thảy.”
– Này chư tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo Tam-tuệ-luân, thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh-tịnh đã phát sinh đến với Như-Lai.
– Này chư tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai dõng dạc khẳng định truyền dạy rằng: “Như-Lai đã chứng đắc thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi-giới chúng-sinh: nhân-loại, Vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương và phạm-thiên cả thảy.”
Trí-tuệ quán triệt (Paccavekkhaṇañāṇa)
Trí-tuệ quán triệt đã phát sinh đến với Như-Lai, biết rõ rằng: “A-ra-hán Thánh-quả-tuệ giải thoát của Như-Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp chót, sau kiếp này, chắc chắn không còn tái-sinh kiếp nào nữa.”